Khảo cứu pháp chân đế – CHƯƠNG 12: BẢN CHẤT CỦA TỐC HÀNH TÂM (JAVANA-CITTA)

CHƯƠNG 12. BẢN CHẤT CỦA TỐC HÀNH TÂM (JAVANA-CITTA)

Sự sinh diệt của các tâm hộ kiếp (bhavanga-citta) và của các tâm lộ, tức là các tâm sinh khởi trong lộ trình, chính là cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Khi chúng ta nghe về các thuật ngữ của Giáo pháp mô tả chức năng và đặc tính của các thực tại khác nhau nhưng không hiểu ý nghĩa của các thuật ngữ ấy, ta có thể có sự hoài nghi. Tất cả các thuật ngữ này giải thích các đặc tính của thực tại, những thực tại ấy không chỉ tồn tại trong các cuốn sách mà xuất hiện chính trong cuộc sống hàng ngày. Chúng sinh khởi mỗi khi tâm thấy, nghe, ngửi, nếm, kinh nghiệm đối tượng xúc chạm hoặc suy nghĩ sinh khởi. Ở thời điểm này, chúng ta đang thấy, và như vậy chúng ta có thể biết rằng đang có các tâm sinh khởi trong một lộ trình. Có sự sinh khởi của nhãn môn hướng tâm, của nhãn thức, tiếp nhận tâm, suy đạt tâm, xác định tâm và các tốc hành tâm (javana-citta). Tất cả các tâm này sinh và diệt một cách liên tiếp. Hiểu biết đúng về Giáo pháp sẽ nhắc nhở chúng ta suy xét liệu tốc hành tâm sinh khởi sau cái thấy, cái nghe hay các ngũ quan khác là tâm thiện (kusala citta) hay tâm bất thiện (akusala citta). Các tốc hành tâm sinh khởi theo chặp trong một luồng riêng.

Khi chúng ta học về bốn loại tâm: thiện (kusala citta), bất thiện (akusala citta), quả (vipāka) và duy tác (kiriya), chúng ta sẽ biết tâm nào là nhân, tạo ra quả dưới dạng của tâm quả (vipākacitta) sinh khởi về sau. Chúng ta cũng biết tâm nào là vipāka, là quả được tạo ra bởi nhân là nghiệp đã tạo trong quá khứ. Chúng ta cần phải biết chủng loại (jāti) của tâm sinh khởi trong các lộ trình và của những tâm không sinh khởi trong các lộ trình. Chẳng hạn chúng ta cần phải biết rằng thức tái tục chính là tâm quả, là quả của nghiệp. Chỉ có một nghiệp trong các nghiệp quá khứ là duyên cho thức tái tục sinh khởi tiếp nối tử thức của kiếp sống trước. Thức tái tục là tâm quả đảm nhận chức năng tái sinh chỉ một lần thôi, nó đảm nhận chức năng này một lần duy nhất trong cả một kiếp sống, ở thời điểm đấu tiên của kiếp sống ấy, khi nó tiếp nối tử thức của kiếp sống trước. Như vậy nó không thể đảm nhận chức năng này lần thứ hai trong một kiếp. Thức tái tục sinh khởi và diệt đi ngay lập tức nó, không tồn tại kéo dài.

Thức tái tục, có chủng loại (jāti) là quả (vipāka), là “vô gián duyên” (anatara-paccaya) cho sự sinh khởi tức thì của tâm tiếp theo. Tâm này không phải là tâm lộ (vīthi-citta), nó đảm nhận chức năng hộ kiếp (bhavanga) và cũng là quả. Nghiệp không chỉ làm duyên cho sự sinh khởi của thức tái tục, mà nó còn tạo duyên cho sự sinh khởi của các tâm hộ kiếp. Tâm hộ kiếp tiếp nối ngay sau thức tái tục được gọi là hộ kiếp đầu tiên (paṭhamabhavanga). Các tâm hộ kiếp tiếp theo sinh khởi trong suốt cuộc đời cho đến khi tử thức sinh khởi không được gọi bằng một tên riêng nào. Chúng có nhiều vô kể.

Tâm hộ kiếp sinh và diệt một cách liên tục, nối tiếp nhau, cho đến khi tâm lộ xuất hiện. Các tâm lộ đầu tiên sinh khởi trong một lộ trình là những tâm đảm nhận chức năng hướng đến đối tượng. Có hai loại hướng tâm: ngũ môn hướng tâm đảm nhận chức năng hướng tâm tới các ngũ môn và ý môn hướng tâm đảm nhận chức năng hướng tâm tới ý môn. Cả hai loại tâm này đều là tâm duy tác (kiriyacitta), không phải là tâm thiện (kusala citta), tâm bất thiện (akusala citta) hay tâm quả (vipākacitta). Các loại tâm duy tác này có thể kinh nghiệm cả đối tượng dễ ưa, khả ái (iṭṭhārammaṇa) và đối tượng bất khả ái (aniṭṭhārammaṇa). Trong trường hợp của tâm quả thì khác, bởi tâm quả bất thiện (akusala vipākacitta) chỉ kinh nghiệm đối tượng bất khả ái còn quả thiện (kusala vipākacitta) chỉ kinh nghiệm đối tượng khả ái.

Cuốn Chú Giải Bộ Pháp Tụ – Atthasālinī (Quyển I, phần X, chương VI, mục 293) giải thích đặc tính của tâm duy tác là “chỉ làm, hay hành của một chức năng”[1]. Có những loại tâm duy tác khác nhau: tâm duy tác của vị A la hán đảm nhận chức năng của tốc hành tâm; và các tâm duy tác không đảm nhận chức năng của tốc hành tâm (javana) mà chỉ đảm nhận các chức năng khác là chung cho cả các vị A la hán và những ai chưa phải là A la hán. Các tâm duy tác không đảm nhận chức năng của tốc hành tâm được Chú Giải Bộ Pháp Tụ  mô tả rằng “chúng vô sinh, giống như một cái cây có hoa bị gió táp”. Khi một bông hoa rụng xuống, sẽ không có quả nữa, như vậy tâm duy tác được ví như bông hoa ấy, nó không thể tạo quả. Có hai loại tâm duy tác không đảm nhận chức năng của tốc hành tâm, đó là: ngũ môn hướng tâm và ý môn hướng tâm. Ngũ môn hướng tâm chỉ đảm nhận chức năng hướng tâm đến đối tượng, trong khi ấy, ý môn hướng tâm lại đảm nhận hai chức năng: chức năng hướng qua ý môn và chức năng xác định đối tượng (votthapana) qua ngũ môn.

Ngoài hai loại tâm duy tác này là chung cho cả các vị A la hán và những ai chưa phải phải là A la hán, có những loại tâm duy tác khác đảm nhận chức năng của tốc hành tâm, nhưng chỉ là trong trường hợp của các vị A la hán mà thôi. Cuốn Chú Giải Bộ Pháp Tụ  có nói đến điều này trong cùng phần đó và giải thích:

“Cái đã đạt đến trạng thái của [tốc hành tâm (ở đây nói đến tâm duy tác của một vị a la hán)] thì vô sinh giống như hoa của một cây đã nhổ rễ”.

Chỉ một vị A la hán mới có các tâm duy tác đảm nhận chức năng của tốc hành tâm (javana), những tốc hành tâm đó không phải là thiện, cũng không phải là bất thiện, chúng không thể tạo quả. Chúng không có quả, giống như bông hoa của một cái cây đã bị nhổ rễ, bởi các vị A la hán đã tận diệt mọi phiền não. Các loại tâm duy tác này chỉ đơn thuần đảm nhận chức năng của tốc hành tâm.

Trong lộ trình nhãn môn, khi ngũ môn hướng tâm đã diệt đi rồi, nó được tiếp nối bởi nhãn thức, là tâm quả (vipākacitta), là kết quả của nghiệp đã tạo. Nghiệp thiện (kusala kamma) làm duyên cho nhãn thức là quả thiện (kusala vipāka), thấy đối tượng thị giác đẹp, dễ chịu và khả ái. Nghiệp bất thiện (akusala kamma) làm duyên cho nhãn thức là quả bất thiện (akusala vipāka), thấy đối tượng thị giác xấu, không dễ chịu, bất khả ái. Tâm lộ nghe qua tai – nhĩ thức cũng là tâm quả. Không ai biết được loại âm thanh nào nhĩ thức sẽ nghe ở một thời điểm cụ thể. Tất cả đều phụ thuộc vào duyên; vào nghiệp đã tạo trong quá khứ. Khi mùi được ngửi qua mũi, đó chính là tâm quả là tỉ thức. Khi vị được nếm qua lưỡi, đó chính là tâm quả là thiệt thức. Khi đối tượng xúc chạm được kinh nghiệm qua thân căn như nóng, lạnh, cứng, mềm, đó chính là tâm quả là thân thức. Nghiệp là duyên cho tất cả các tâm quả sinh khởi và kinh nghiệm đối tượng sau khi ngũ môn hướng tâm đã đảm nhận chức năng của mình là hướng đến đối tượng.

Ngũ song thức, chẳng hạn như thấy hay nghe, là vô gián duyên (anantarapaccaya) cho sự sinh khởi của tâm tiếp theo – tiếp nhận tâm, cái tiếp nhận đối tượng. Tiếp nhận tâm là tâm quả, nó là kết quả của cùng một nghiệp đã tạo ra các ngũ song thức trước đó. Khi tiếp nhận tâm đã diệt đi thì vẫn nghiệp đó sẽ tạo ra suy đạt tâm, cái cũng là tâm quả và đảm nhận chức năng suy đạt sau khi chức năng tiếp nhận đã được thực hiện.

Các tâm lộ là tâm quả và sinh khởi trong lộ trình ngũ môn bao gồm: nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức và thân thức, tiếp nhận tâm và suy đạt tâm. Các tâm này không sinh khởi theo chặp trong một luồng riêng như tốc hành tâm; chúng chỉ là kết quả của nghiệp. Chúng sinh khởi, đảm nhận chức năng riêng của mình và rồi diệt đi. Sau khi suy đạt tâm đã diệt đi thì xác định tâm sinh khởi, tâm này thực chất là ý môn hướng tâm (mano-dvārāvajjana-citta) đảm nhận chức năng xác định trong lộ trình của ngũ môn. Xác định tâm là tâm duy tác chỉ đảm nhận chức năng của nó và rồi diệt đi; nó không sinh khởi theo chặp liên tục trong luồng riêng. Khi nó diệt đi, nó được tiếp nối bởi các tốc hành tâm lộ (javana vīthi-citta), cái đảm nhận chức năng “chạy qua đối tượng”, chúng có thể là tâm thiện hoặc tâm bất thiện trong trường hợp của những người không phải là A la hán. Như chúng ta đã thấy, đối với các vị A la hán, luồng tốc hành tâm luôn là tâm duy tác. Thông thường có bảy chặp tốc hành tâm thuộc cùng một loại, sinh và diệt một cách liên tiếp; và như vậy các tâm này sinh và diệt theo chặp trong một luồng riêng. Điều ấy đang xảy ra ở chính khoảnh khắc này.

Trong cuốn Chú Giải Bộ Pháp Tụ có sử dụng một ví dụ để giải thích sự sinh khởi của tâm lộ kinh nghiệm đối tượng trong lộ trình ngũ môn. Chúng ta đọc:

Có một vị vua kia lên giường và chìm vào giấc ngủ say. Người hầu cận đang ngồi xoa bóp chân cho nhà vua; một người canh cổng điếc đang đứng ở cửa. Có ba tên lính canh đứng thành hàng. Thế rồi có một người dân trong làng lân cận đem đến dâng cho hoàng đế quà tặng, chạy lại gõ cửa. Vì điếc nên người canh cổng không nghe thấy tiếng động. Còn người đang xoa bóp chân cho nhà vua lại ra hiệu và người canh cửa liền mở cửa ra xem. Người lính canh đầu tiên nhận lấy món quà dành dâng cho nhà vua, rồi trao lại cho người lính canh thứ hai, rồi người này lại trao lại cho người lính canh thứ ba, đến lượt người này liền dâng món quà lên cho hoàng thượng, ngài liền thọ hưởng món quà này.

Khi suy xét ví dụ này, chúng ta sẽ hiểu được chức năng được đảm nhận bởi mỗi tâm lộ sinh khởi và kinh nghiệm đối tượng. Sự in dấu của đối tượng lên nhãn căn giống như là việc dân làng mang tới món quà và gõ vào cửa. Ví dụ này chỉ cho chúng ta thấy rằng đối tượng chỉ có chức năng là in dấu lên căn tương ứng. Dân làng không thể vào yết kiến vua, mà món quà ấy cần phải được giao cho người lính thứ nhất, người lính thứ 2, rồi người lính thứ 3, sau đó mới được chuyển đến tay nhà vua. Chức năng của ngũ môn hướng tâm có thể được so sánh với việc ra hiệu của người hầu cận đang xoa chân nhà vua. Người ấy biết rằng có một người khách đã tới và gõ cửa. Ngũ môn hướng tâm hướng đến đối tượng, in dấu lên một trong các môn tương ứng và rồi diệt đi. Sau đó, trong trường hợp của lộ trình nhãn môn, thì nhãn thức sinh khởi và đảm nhận chức năng của cái thấy qua nhãn căn, lúc đó là nhãn môn. Điều này được so với người giữ cửa bị điếc mở cửa và nhìn. Chỉ có nhãn thức đảm nhận chức năng thấy đối tượng in dấu lên nhãn môn. Đối tượng thị giác chỉ in dấu lên sắc là nhãn căn và các tâm của lộ trình nhãn môn cần phải biết đối tượng ấy; đối tượng không thể chạy trốn hay thâm nhập vào một căn khác. Nhãn thức không thể đảm nhận chức năng tiếp nhận đối tượng, nó chỉ thấy đối tượng và rồi diệt đi. Như vậy tiếp nhận tâm được so sánh với người lính gác thứ nhất, tiếp nhận món quà và đưa nó cho người lính gác thứ hai. Suy đạt tâm như người lính gác thứ hai suy xét món quà và đưa nó cho người lính gác thứ ba. Xác đinh tâm như lính người gác thứ ba, xác định món quà và sau đó đưa món quà cho Đức vua. Vị Vua thọ hưởng món quà ấy ám chỉ luồng tốc hành tâm tiếp nối sau xác định tâm và tận hưởng đặc tính chính yếu của đối tượng ấy.

Vị vua thọ hưởng đối tượng và điều này giải thích đặc tính của tâm thiện và tâm bất thiện đảm nhận chức năng của tốc hành tâm là chạy qua đối tượng; qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân hoặc ý môn. Tốc hành tâm thọ hưởng đối tượng với tham, với sân hay với si; hoặc nó có thể là tâm thiện hay, trong trường hợp của vị A la hán, là tâm duy tác. Tốc hành tâm đảm nhận chức năng riêng của chúng, chúng không tiếp nhận đối tượng, không suy đạt hay xác định đối tượng, bởi những tâm trước đó đã đảm nhận những chức năng ấy rồi. Do vậy, có duyên tố cho sự sinh khởi của tâm thiện, tâm bất thiện hay tâm duy tác chạy qua đối tượng trong một luồng tiếp nối bảy chặp tâm cùng một loại. Tốc hành tâm lộ (javana vīthi-citta) thọ hưởng đối tượng ấy. Trong trường hợp một lộ trình “vô ích”[2], âm thanh, chẳng hạn, in dấu lên nhãn căn nhưng sẽ không có cái nghe; và các tốc hành tâm sẽ không sinh khởi. Cũng như vậy, trong lộ trình kết thúc với xác định tâm, các tốc hành tâm là tâm thiện, tâm bất thiện hay tâm duy tác sẽ không sinh khởi. Khi ấy sẽ không có sự thọ hưởng đối tượng, còn các tốc hành tâm sinh và diệt một cách liên tục trong một luồng bảy chặp tâm cùng một loại, hoặc thiện, bất thiện hay duy tác luôn thọ hưởng, tiêu hóa đối tượng.

Việc có bảy tốc hành tâm sinh và diệt một cách liên tục và thọ hưởng đối tượng là theo duyên hệ. Tốc hành tâm đầu tiên là tập hành duyên (asevana-paccaya) cho tốc hành tâm thứ hai; cái sinh khởi và thọ hưởng đối tượng một lần nữa và cứ như vậy cho đến tốc hành tâm thứ bảy; tốc hành tâm này không phải là tập hành duyên (asevana-paccaya) cho tâm tiếp theo. Tốc hành tâm lộ thiện (kusala javana vīthi-citta), tốc hành tâm lộ bất thiện (akusala javana vīthi-citta) hay tốc hành tâm lộ duy tác (kiriyajavana vīthi-citta) đều có thể là tập hành duyên (asevana-paccaya) cho sự sinh khởi của các tâm tiếp theo. Nhờ loại duyên hệ này, có sự lặp lại của các tâm cùng một tính chất, sinh khởi và đảm nhận chức năng của tốc hành tâm; và như vậy tâm thiện và tâm bất thiện có đủ sức mạnh để làm duyên nghiệp cho sự sinh khởi của quả (vipāka) trong tương lai. Hơn thế nữa, chúng có thể là thân y duyên (upanissaya-paccaya), cho sự sinh khởi một lần nữa các tốc hành tâm lộ thiện hay tốc hành tâm lộ bất thiện trong tương lai. Sự sinh khởi thường xuyên trong các luồng tâm bất thiện khác nhau làm duyên cho sự tích lũy ngày càng tăng của bất thiện. Bởi vậy, chúng ta mê đắm với những gì mà mình thấy ngay từ khi thức dậy và mở mắt. Khi chúng ta ngủ say và không mơ là lúc có các tâm hộ kiếp, nhưng khi mơ hay suy nghĩ thì không có tâm hộ kiếp mà là các tâm thuộc lộ trình ý môn, cái là suy nghĩ. Khi có các tâm hộ kiếp, chúng ta không hay biết bất cứ đối tượng nào thông qua một trong sáu môn, là những đối tượng của thế gian này, nhưng điều ấy không có nghĩa rằng ta không còn phiền não nữa. Cùng với các tâm hộ kiếp, vẫn còn có các phiền não ngủ ngầm (anusaya kilesa) khác.

Có ba mức độ của phiền não:

  • Phiền não vi tế (anusaya kilesa), là phiền não đã được tích lũy nằm trong tầng lớp ngủ ngầm của dưới dạng các khuynh hướng ngủ ngầm.
  • Phiền não bậc trung (pariyuṭṭhāna[3]kilesa), sinh khởi cùng với các tốc hành tâm.
  • Phiền não bậc thô (vītikkama[4]kilesa), sinh khởi cùng với các tốc hành tâm.

Như vậy, ngay cả với các tâm không phải là tốc hành tâm, vẫn có những phiền não dưới dạng ngủ ngầm. Các vị A la hán đã hoàn toàn tận diệt phiền não và vì vậy không còn các phiền não ngủ ngầm nữa.

Tâm lộ thấy đối tượng thị giác xuất hiện qua mắt, nghe âm thanh qua tai hoặc kinh nghiệm các đối tượng dục giới được tiếp nối trong cùng lộ trình ấy bởi các tốc hành tâm  xếp trong luồng các tâm tốc hành dục giới (kāmāvacara citta) cùng loại: tâm thiện, tâm bất thiện hay tâm duy tác.

Trong trường hợp của lộ trình nhãn môn, có bảy loại tâm lộ[5]. Cũng như vậy trong trường hợp của lộ trình nhĩ môn hay các lộ trình ngũ môn khác, đều có bảy loại tâm lộ khác nhau. Trong trường hợp của ý môn thì có ba loại tâm lộ khác nhau.

 

********

Câu hỏi

 

  1. Các tâm lộ nào thuộc lộ trình ngũ môn và lộ trình ý môn là các tâm quả?
  2. Những người không phải là A la hán có bao nhiêu loại tâm duy tác?
  3. Vị A la hán có bao nhiêu loại tâm duy tác không phải là tốc hành tâm lộ?
  4. Thế nào là tập hành duyên (asevana-paccaya)?
  5. Những tâm nào có thể là tập hành duyên?


[1] Kiriya, hoặc kriya xuất phát từ “karoti” (làm). Nó có nghĩa là “hành động” hay “bận bịu”. Tâm duy tác (kiriya citta) đảm nhận một chức năng. Nó được dịch là “duy tác” hay “vô ký” bởi vì nó không tạo quả. Nó không phải là thiện hoặc bất thiện.

[2] Xem thêm chương 11.

[3] Nó có nghĩa là “bộc lộ”.

[4] Nó có nghĩa là “phạm” (giới).

[5] Xem chương 10.

Comments are closed.

Translate »