Khảo cứu Pháp chân đế – CHƯƠNG 21: NHÂN (HETU)

CHƯƠNG 21. NHÂN (HETU)

Tâm rất đa dạng do bởi các pháp tương hợp (sampayutta dhamma) là nhân.

Các thực tại là pháp hữu vi (saṅkkhāra dhamma) không thể tự sinh khởi mà không lệ thuộc vào các duyên cho sự sinh khởi của chúng. Có ba loại pháp chân đế được gọi là pháp hữu vi, đó là tâm (citta), tâm sở (cetasika) và sắc (rūpa). Tâm phụ thuộc vào tâm sở làm duyên cho chúng sinh khởi; tâm sở lại lệ thuộc vào tâm làm duyên cho sự sinh khởi của chúng. Một số loại tâm lệ thuộc vào cả tâm sở và sắc để làm duyên cho chúng sinh khởi. Một số loại sắc phụ thuộc vào tâm, tâm sở hay vào các sắc khác làm duyên cho chúng sinh khởi.

Tâm muôn màu vẻ do bởi các nhân khác nhau sinh kèm với chúng. Một số tâm sinh khởi cùng các tâm sở là nhân, trong khi một số tâm khác sinh khởi mà không có nhân. Chỉ có 6 tâm sở là nhân là:

 

Tâm sở tham (lobha cetasika) là nhân tham

3 nhân bất thiện (akusala hetu)

Tâm sở sân (dosa cetasika) là nhân sân
Tâm sở si (moha cetasika) là nhân si
 

Tâm sở vô tham (alobha cetasika) là nhân vô tham

3 nhân tịnh hảo (sobhana hetu)

Tâm sở vô sân (adosa cetasika) là nhân vô sân
Tâm sở vô sân (adosa cetasika) là nhân vô sân

 

Các pháp không phải là sáu loại tâm sở này không thể làm nhân duyên (hetu-paccaya). Các tâm sở không phải là nhân vẫn làm duyên cho tâm khi sinh khởi cùng nó, nhưng không theo phương thức duyên hệ được gọi là nhân duyên (hetu-paccaya). Nhân duyên (hetu-paccaya) chỉ là một trong 24 loại duyên hệ khác nhau.

Sáu loại tâm sở là nhân có thể so sánh với gốc rễ của một cái cây, nó làm cho cây phát triển, trưởng thành để có thể đơm hoa kết trái. Khi sáu loại nhân này sinh khởi, chúng khiến các pháp đồng sinh lớn mạnh và phát triển, nó tạo ra quả, lần này sau lần khác và ngày càng nhiều. Những ai chưa phải là A la hán vẫn còn nhân thiện (kusala hetu) và nhân bất thiện (akusala hetu). Còn vị A la hán thì không còn nhân thiện và nhân bất thiện nữa. Tâm sở vô tham (alobha), vô sân (adosa) và tâm sở trí tuệ (amoha) sinh kèm với tâm duy tác (kiriyacitta) đảm nhận chức năng tốc hành tâm (javana) của vị A la hán được gọi là nhân vô ký (avyākata hetu), tức là loại nhân không phải là thiện cũng không phải là bất thiện[1].

Các pháp vô ký (avyākata dhamma) là các thực tại không phải là thiện cũng không phải là bất thiện, nó bao gồm: tâm quả (vipākacitta); tâm duy tác (kiriyacitta); tâm sở quả (vipāka cetasika); tâm sở duy tác (kiriya cetasika), sắc (rūpa) và niết bàn (nibbāna)

Như chúng ta đã thấy, sáu loại nhân này cũng được phân thành hai: một là ba nhân bất thiện (akusala hetu) tham, sân và si; hai là ba nhân tịnh hảo (sobhana hetu) là vô tham, vô sân và trí tuệ. Theo cách chia này, thuật ngữ “tịnh hảo” (sobhana) được sử dụng thay cho thuật ngữ “thiện” (kusala). Nhân là thiện chỉ sinh khởi với tâm thiện (kusala citta) và tâm này làm duyên cho tâm quả thiện (kusala vipāka) sinh khởi về sau. Trong khi ấy, nhân tịnh hảo sinh khởi với các tâm thiện, chúng cũng có thể sinh khởi cùng các tâm quả thiện (kusala vipākacitta)[2] và các tâm duy tác tịnh hảo (sobhana kiriyacitta). Như vậy nhân tịnh hảo không chỉ sinh khởi cùng tâm thiện.

Bốn pháp chân đế (paramattha dhamma) có thể được xếp thành hai, dựa vào không-là-nhân (na-hetu) và nhân (hetu) như sau:

  • Tâm (citta): là không-là-nhân (na-hetu).
  • Tâm sở (cetasika): chỉ có 6 trong số 52 tâm sở là nhân (hetu), 46 tâm sở còn lại là không-là-nhân (na-hetu).
  • Sắc (rūpa): là không-là-nhân (na-hetu).
  • Niết bàn (nibbāna): là không-là-nhân (na-hetu).

Tâm  và 46 tâm sở  đều là không-là-nhân (na-hetu). Một số tâm và tâm sở đồng sinh với các tâm sở là nhân; chúng là tâm và tâm sở hữu nhân (sahetuka citta và sahetuka cetasika)[3]. Một số tâm và tâm sở không sinh kèm với nhân, chúng là tâm và tâm sở vô nhân (ahetuka citta và ahetuka cetasika).

Nhãn thức, cái thấy đối tượng thị giác (cảnh sắc) xuất hiện, chỉ đồng sinh với bảy tâm sở là: xúc, thọ, tưởng, tư, mạng căn, nhất tâm và hướng tâm. Xúc là tâm sở xúc (phassa cetasika) đảm nhận chức năng xúc chạm với đối tượng thị giác in dấu lên nhãn căn. Tâm sở thọ (vedanā cetasika) đảm nhận chức năng cảm nhận. Trong trường hợp này là thọ xả (upekkhā vedanā), cái cảm nhận trung tính về đối tượng thị giác. Tâm sở tưởng (saññācetasika) đảm nhận chức năng ghi nhớ đối tượng thị giác xuất hiện qua nhãn căn. Vì trong trường hợp này tâm không phải là thiện hay bất thiện, tâm sở tư (cetanā cetasika) chỉ đảm nhận chức năng phối hợp, đôn đốc tâm và các tâm sở đồng sinh hoàn thành chức năng riêng của chúng. Tâm sở mạng căn (jīvitindriya cetasika) đảm nhận chức năng hỗ trợ tâm và các tâm sở đồng sinh, duy trì sự sống của chúng, nhưng chỉ chừng nào chúng còn đang tồn tại. Tâm sở nhất tâm (ekaggatā cetasika) đảm nhận chức năng tập trung vào đối tượng xuất hiện. Tâm sở hướng tâm (manasikāra cetasika) đảm nhận chức năng hướng đến đối tượng thị giác.

Bẩy tâm sở này là vô nhân và vì vậy nhãn thức là tâm quả vô nhân (ahetuka vipākacitta). Tâm căn tham (lobha-mūla-citta) có thể sinh khởi ngay sau cái thấy, nó sinh kèm với hai tâm sở là nhân: tham (lobha) là pháp thích thú với đối tượng xuất hiện và dính mắc với nó; si (moha) là pháp vô minh về các thực tại. Như vậy tâm căn tham (lobha-mūla-citta) là tâm hữu nhân (sahetuka citta).

Khi chúng ta tính đến các xếp loại nhân (hetu), không-là-nhân (na-hetu), hữu nhân (sahetuka) và vô nhân (ahetuka), các pháp hữu vi có thể được chia như sau:

Sắc (rūpa): là không-là-nhân (na-hetu)
Tâm (citta): là vô nhân (na-hetu), có một số tâm là hữu nhân (sahetuka), một số là vô nhân (asahetuka)
Tâm sở (cetasika): 46 tâm sở là không-là-nhân (na-hetu); một số tâm sở là hữu nhân (sahetuka), một số là vô nhân (ahetuka). 6 tâm sở là nhân (hetu) gồm: tham, sân, si, vô tham, vô sân và trí tuệ; các tâm sở này là nhân và cũng là hữu nhân khi chúng sinh kèm với các nhân khác, ngoại trừ trường hợp tâm sở si sinh kèm với tâm căn si. Si trong trường hợp ấy là vô nhân (ahetuka).

Tâm sở tham  là hữu nhân bởi vì nó luôn sinh kèm với một nhân nữa là si. Nếu tâm sở si (moha cetasika) không sinh khởi, tâm sở tham (lobha cetasika) không thể sinh khởi. Tâm sở sân (dosa cetasika) cũng là hữu nhân, bởi vì nó cũng luôn đồng sinh với si (moha). Si sinh kèm với tâm căn tham là hữu nhân bởi khi ấy nó luôn sinh khởi với tâm sở tham. Si sinh kèm với tâm căn sân là hữu nhân bởi khi ấy nó luôn sinh khởi với tâm sở sân. Si sinh kèmtâm si căn là vô nhân (ahetuka) vì si khi ấy là nhân duy nhất, nó không sinh khởi cùng tham (lobha) và sân (dosa).

Tâm sở xúc (phassa cetasika) sinh kèm với mỗi tâm, nó không phải là nhân (na-hetu). Bất cứ khi nào tâm sinh khởi cùng với các tâm sở là nhân, tâm sở xúc đồng sinh là hữu nhân (sahetuka). Bất cứ khi nào tâm vô nhân (ahetuka citta) sinh khởi, tâm sở xúc đồng sinh là vô nhân. Như vậy xúc vừa là không-là-nhân (na-hetu), vừa là hữu nhân (sahetuka), vừa là vô nhân (ahetuka).

Cuộc sống đời thường của chúng ta luôn bao gồm tâm hữu nhân và tâm vô nhân. Nếu không được nghe Pháp và nghiên cứu Giáo pháp, ta sẽ không biết khi nào là tâm hữu nhân, khi nào là vô nhân. Đức Phật đã thuyết giảng rất chi tiết khi nào tâm là vô nhân và khi nào là hữu nhân. Ngài đã giảng những loại nhân nào và các loại tâm sở nào sinh kèm với tâm hữu nhân, Ngài cũng chỉ ra số lượng của các pháp đồng sinh. Chẳng hạn:

  • Tâm căn si (moha-mūla-citta) sinh kèm với một nhân, là si (moha), nó là một nhân (eka-hetuka).
  • Tâm căn tham (lobha-mūla-citta) sinh kèm với hai nhân, là tham (lobha) và si (moha), nó là hai nhân (dvi-hetuka) (còn gọi là nhị nhân).
  • Tâm căn sân (dosa-mūla-citta) sinh kèm với một nhân, là si (moha) và sân, nó là hai nhân (dvi-hetuka).

Còn tâm thiện phải sinh kèm với các nhân tịnh hảo, nếu không nó sẽ không được gọi là thiện. Tâm thiện có thể được phân biệt thành hợp trí và không hợp trí, tùy theo nó có sinh kèm với tâm sở trí tuệ (paññā cetasika) hay không. Tâm thiện không hợp trí sinh khởi với hai nhân là vô sân  và vô tham, như vậy nó là hai nhân (dvi-hetuka). Tâm thiện hợp trí sinh khởi với ba nhân là vô sân, vô tham, và vô si, vì vậy, nó là ba nhân (ti-hetuka) (hay còn gọi là tam nhân). Tâm thiện không thể sinh kèm với một nhân; nó luôn sinh kèm với tối thiểu là hai nhân vô tham và vô sân.

Nhân duyên (hetu-paccaya) là một trong 24 duyên hệ. Một yếu tố làm duyên (năng duyên) là một pháp hỗ trợ các pháp khác, làm duyên cho chúng sinh khởi, hoặc duy trì chúng, tùy thuộc vào loại duyên. Chẳng hạn như tâm sở xúc khác với tâm sở tham, nhưng cả xúc và tham đều là những yếu tố hỗ trợ các pháp khác – tâm, tâm sở và sắc – để tạo duyên cho sự sinh khởi của chúng. Tuy nhiên đặc tính và chức năng của xúc lại khác với tham, cho nên hai tâm sở này tạo duyên theo hai cách khác nhau.

Tâm sở xúc là vật thực duyên (āhāra-paccaya). Loại duyên hệ này mang đến kết quả riêng của nó, trong trường hợp này là cảm thọ[4]. Loại duyên hệ này khác với nhân duyên (hetu-paccaya); nhân là một cơ sở vững chắc cho pháp mà nó tạo duyên. Như ta đã thấy, nhân có thể được so với rễ của một cái cây, giúp cho cây lớn mạnh và trưởng thành. Tuy nhiên cái cây ấy không chỉ phụ thuộc vào rễ để trưởng thành và phát triển. Nó không chỉ cần đến đất và nước mà còn cần đến dưỡng chất để trổ quả. Mặt khác, nếu không có rễ thì đất và nước không thể làm cây lớn mạnh và xum xuê được. Như vậy, cây cần có những duyên khác nhau để trưởng thành. Mặc dù có sáu nhân làm duyên theo phương thức nhân duyên, nhưng bên cạnh đó cũng có những duyên hệ khác. Các hiện tượng tạo duyên cho các hiện tượng khác theo nhiều cách khác nhau.

Trong cuốn thứ bảy của tạng Vi diệu pháp (Abhidhamma Piṭaka) là Bộ Duyên hệ (Paṭṭhāna) có giảng về các phương thức tạo duyên (duyên hệ) khác nhau. Duyên đầu tiên được nói đến là nhân duyên (hetu-paccaya). Như vậy, chúng ta có thể thấy được tầm quan trọng của các pháp là nhân. Khi các chư tăng tụng kinh từ tạng Vi Diệu Pháp trong các lễ hỏa táng, bài kinh ấy bắt đầu bằng từ “nhân duyên” (hetu-paccaya), bao gồm 6 loại nhân: tham; sân; si; vô tham; vô sân; vô si. Điều đó nhấn mạnh rằng các pháp là nhân này tạo quả, chúng làm duyên cho sự tái sinh và sự tiếp diễn của vòng sinh tử luân hồi.

Có nhiều loại duyên hệ khác nhau, tất cả những duyên hệ ấy đều rất quan trọng. Đức Phật không chỉ thuyết về nhân duyên. Ngài cũng không chỉ thuyết về cảnh duyên (ārammaṇa-paccaya). Trong trường hợp của cảnh duyên, cảnh là duyên cho tâm sinh khởi và biết đối tượng. Đức Phật đã thuyết giảng rất chi tiết về tất cả các duyên hệ. Ngài giảng tất cả 24 loại duyên hệ chính và cả các loại duyên hệ khác xuất phát từ các duyên hệ chính này.

Sắc là nhãn căn (cakkhuppasāda rūpa) không sinh khởi bởi nhân duyên mà bởi những duyên hệ khác. Nó lại làm duyên cho các pháp khác với tư cách là quyền duyên (indriya-paccaya). Nó dẫn đầu trong chức năng riêng của nó: chức năng ấy là khả năng làm duyên cho nhãn thức sinh khởi và thấy đối tượng thị giác xuất hiện. Như vậy nó tạo duyên cho nhãn thức sinh khởi theo phương thức quyền duyên. Nếu không có sắc là nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn, thì thân sẽ như một khúc gỗ. Ta sẽ không thể thấy, nghe, hay kinh nghiệm các đối tượng ngũ quan khác. Năm loại sắc thần kinh đều là quyền duyên, chúng dẫn đầu trong việc thực hiện chức năng riêng của mình, mỗi thứ trong lĩnh vực riêng của nó. Nhãn căn dẫn đầu trong việc đảm nhận chức năng tiếp nhận đối tượng thị giác, nó làm duyên cho nhãn thức sinh khởi thấy đối tượng thị giác. Các loại sắc khác không thể đảm nhận chức năng này. Việc cái xuất hiện là mờ hay tỏ thì phụ thuộc vào mức độ sắc bén của nhãn căn. Điều này không phụ thuộc vào ý chí hay mong muốn của ai cả, mà chỉ phụ thuộc vào nhãn căn, cái là quyền duyên cho cái thấy (nhãn thức).

Mỗi loại pháp làm duyên cho sự sinh khởi của các pháp khác và có nhiều loại duyên hệ khác nhau. Tham, sân, si, vô tham, vô sân hay trí tuệ tạo duyên cho những pháp khác bằng cách làm nhân cho chúng.Trong ngày có rất nhiều nhân bất thiện sinh khởi, chúng sinh khởi thường xuyên hơn là nhân thiện. Đôi lúc có các nhân thiện và khi chúng dần phát triển và trở nên mạnh mẽ, các nhân bất thiện sẽ suy giảm. Trí tuệ cần phải được phát triển để các đặc tính của thực tại được biết như chúng là. Chính trí tuệ, hay nhân vô si, hiểu thực tại như chúng là. Chừng nào trí tuệ chưa biết rõ các đặc tính của thực tại, các nhân bất thiện, tham, sân, si, sẽ lớn mạnh và phát triển. Không có thực tại nào khác ngoài trí tuệ – hay vô si – có thể tận diệt được các nhân bất thiện. Khi ta nghiên cứu Giáo pháp và hiểu đặc tính của các thực tại xuất hiện qua sáu cửa giác quan và phát triển tứ niệm xứ (satipaṭṭhāna), tâm sở thiện vô si hay trí tuệ sẽ phát triển dần dần. Khi ta chứng ngộ Tứ Thánh Đế ở mức độ thứ nhất, tức giai đoạn giác ngộ của một vị Thánh Dự lưu (Sotāpanna), một vài phiền não được đoạn tận tương ứng với giai đoạn ấy. Tại thời điểm chứng ngộ A la hán quả, tất cả các phiền não đều được tận diệt.

Các vị Thánh Dự lưu (Sotāpnna), Nhất lai (Sakadāgāmī) và Bất lai (Anāgāmī) được gọi là các vị “hữu học”, tiếng Pāli là “sekha puggala”. Họ vẫn cần tiếp tục phát triển trí tuệ cho đến khi đạt được quả vị A la hán, khi các nhân thiện và nhân bất thiện sẽ không còn sinh khởi nữa. Một vị A la hán đã tận diệt được hoàn toàn phiền não, đã đi đến tận cùng của vòng sinh tử luân hồi, sẽ không còn nhân thiện nào sinh khởi nữa, bởi nếu có, nó sẽ là duyên cho sự sinh khởi của quả thiện trong tương lai, một cách bất tận. Một vị A la hán có các tâm sinh kèm với vô tham, vô sân và vô si, nhưng các loại tâm sở này được gọi là các nhân vô ký (avyākata hetu), chúng không tạo quả trong tương lai nữa.

Ta có thể thắc mắc liệu có bao giờ ta đạt được đến mức độ đó không? Ta sẽ đạt được điều ấy vào một ngày nào đó nếu ta có đủ kiên nhẫn và bền bỉ với sự phát triển tuệ giác, ngày này qua ngày khác. Đã có nhiều người trong quá khứ đạt được quả vị A la hán và nếu điều này là không thể thì đã chẳng có ai chứng đắc. Tuy nhiên, điều ấy không thể đạt được một cách nhanh chóng như ta hy vọng, quả bao giờ cũng tương ứng với nhân. Nếu trí tuệ vẫn chưa sinh khởi và phát triển thì phiền não không thể bị tận diệt. Trí tuệ có thể được phát triển dần dần, từng bước một và khi ấy, nó có thể xuyên thấu được các đặc tính của thực tại. Bằng cách ấy, phiền não có thể bị tận diệt.

Chúng ta không nên quên mục đích của việc nghiên cứu tâm, tâm sở và sắc. Mục đích chính là phát triển tứ niệm xứ và như vậy cũng là hiểu biết về đặc tính của tâm, tâm sở và sắc khi chúng xuất hiện một cách tự nhiên, một thứ ở một thời điểm. Đó là sự thật mà Đức Phật đã chứng ngộ và thuyết giảng cho mọi người. Có thể rằng, ta đã nghiên cứu Pháp nhưng lại không thực hành theo cái mình được học. Như vậy là không nhất quán. Khi ta đã nghiên cứu các thực tại từ sách vở nhưng không học cách biết chúng khi chúng xuất hiện thì sẽ không thể nào tận diệt được phiền não.

Các nhân bất thiện của tham, sân và si sinh khởi là thuộc chủng loại bất thiện, chúng không thể thuộc về chủng loại nào khác. Các nhân bất thiện tạo duyên cho sự sinh khởi của các tâm bất thiện và chúng được tích lũy ngày càng nhiều thêm và được chuyển tiếp đến tương lai. Ba nhân tịnh hảo là vô tham, vô sân và trí tuệ có thể thuộc tính chất thiện, quả và duy tác, bởi chúng sinh kèm với tâm thiện, quả thiện và duy tác. Như ta đã thấy, tịnh hảo bao gồm nhiều pháp hơn là thiện. Pháp tịnh hảo (sobhana dhamma) bao gồm các thực tại là thiện (kusala), quả thiện (kusala vipāka) và duy tác tịnh hảo (sobhana kiriya).

Khi tất cả các pháp được chia thành ba nhóm là pháp thiện (kusala dhamma), pháp bất thiện (akusala dhamma) và pháp vô ký (avyākata dhamma), sáu tâm sở là nhân được xếp thành chín theo cách như sau:

  • Ba nhân bất thiện (akusala hetus): tham (lobha), sân (dosa) và si (moha).
  • Ba nhân thiện (kusala hetus): vô tham (alobha), vô sân (adosa) và trí tuệ (paññā).
  • Ba nhân vô ký (avyākata hetu): vô tham (alobha), vô sân (adosa) và trí tuệ (paññā).

 

********

Câu hỏi

  1. Thế nào là nhân duyên (hetu-paccaya) và loại pháp chân đế nào là nhân duyên?
  2. Thế nào là các nhân vô ký và những nhân nào là nhân vô ký?
  3. Thế nào là pháp vô ký và những thực tại nào là pháp vô ký?
  4. Đâu là sự khác biệt giữa nhân thiện và nhân tịnh hảo?
  5. Các thực tại nào là không-là-nhân (na-hetu)
  6. Thế nào là hữu nhân và các thực tại nào là hữu nhân?
  7. Các tâm sở nhân nào là vô nhân và các tâm sở nhân nào là hữu nhân?
  8. Các tâm bất thiện nào được sinh kèm với một nhân (eka-hetuka) và các tâm bất thiện nào được sinh kèm với hai nhân (dvi-hetuka)?
  9. Liệu tâm thiện có thể là một nhân (eka-hetuka) không? Hãy giải thích tại sao

10.Tâm sở xúc (phassa cetasika) là nhân (hetu) hay là không-là-nhân (na-hetu)? Nó có thể là vô nhân (ahetuka) hay hữu nhân (sahetuka) không? Nó có thể là một nhân (eka-hetuka), hai nhân (dvi-hetuka), hay ba nhân (ti-hetuka) hay không?

Khi các nhân được xếp thành chín loại, chúng là những gì?



[1] Như ta đã thấy, vị A la hán không tạo nghiệp có thể sinh quả, vì vậy các tâm duy tác đảm nhận chức năng tốc hành tâm.

[2] Tâm quả thiện có thể đi kèm bởi các nhân tịnh hảo hoặc có thể là vô nhân (ahetuka)

[3] “Sa” có nghĩa là “với”

[4] Dưỡng chất (vật thực), xúc (phassa), tác ý (cetanā) và thức có thể là thực duyên (āhāra-paccaya). Trong trường hợp của thực duyên, pháp tạo duyên (năng pháp) duy trì sự tồn tại và hỗ trợ sự phát triển của pháp được tạo duyên (sở pháp). Xem thêm Phụ lục II: Tâm sở, mục về Xúc.

Comments are closed.

Translate »