TUYỂN TẬP PHÁP ĐÀM VỚI ACHAAN SUJIN – TẬP II. CHƯƠNG IX: PHÁP HỌC- PHÁP HÀNH – PHÁP THÀNH & VĂN TUỆ – TƯ TUỆ – TU TUỆ

CHƯƠNG IX: PHÁP HỌC- PHÁP HÀNH – PHÁP THÀNH  & VĂN TUỆ – TƯ TUỆ – TU TUỆ

  

Pháp đàm tại Hội an, sáng ngày 21/05/14

Người hỏi: Kính thưa Achaan Sujin, bà nhấn mạnh tầm quan trọng của Pháp học, và bà có nói Pháp học phải là hiểu biết vững chắc, về mặt tư duy, đặc tính của từng thực tại một. Con muốn được biết là Đức Phật đã định nghĩa như thế nào là đặc tính của thực tại, và trong tiếng Pali thì đặc tính của thực tại là gì? Con chưa từng được (nghe) Achaan Sujin nói về tiếng Pali của từ “đặc tính thực tại”.

Achaan Sujin: Trong tiếng Pali, từ “nhãn thức” là cakkhuvinnana. Dù chúng ta dùng ngôn ngữ nào đi chăng nữa, thì nó cũng chỉ đến một thực tại. Bạn có đang tìm hiểu pháp không? Pháp là gì? Hiện giờ có pháp không? Nếu bạn biết hiện giờ có pháp thì dù bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào bạn cũng có thể biết rằng hiện giờ có sự nghiên cứu pháp hay không. Chẳng hạn như cái thấy, hiện giờ có cái thấy không? Nó có thực không? Đức Phật dạy cái gì về nó?

Người hỏi: Đức Phật dạy cái thấy sinh khởi do duyên và là vô ngã.

Achaan Sujin: Liệu điều đó được kinh nghiệm trực tiếp chưa?

Người hỏi: Chưa ạ.

Achaan Sujin: Bạn có chắc chắn rằng, mặc dù nó chưa được kinh nghiệm trực tiếp nhưng thực sự nó phải sinh và diệt hay không? Chỉ tin thôi hay sao? Bởi vì không phải lúc nào cũng có cái thấy, ở khoảnh khắc của nghe không thể có thấy. Chúng ta có thể suy xét, tư duy rằng khoảnh khắc của cái thấy phải diệt đi thì mới có khoảnh khắc của cái nghe, nhưng chúng ta chưa trực tiếp kinh nghiệm được điều đó. Chúng ta học để dần biết rõ hơn Đức Phật, người đã giảng cho chúng ta những sự thật thật vi tế. Đừng để tham thúc đẩy bạn tìm một cách nào đó để kinh nghiệm ngay lập tức sự sinh diệt của các thực tại. Nó phải là sự phát triển hiểu biết từ việc nghe và không quên lãng. Bạn biết đây là gì không?

Người hỏi: Đối tượng thị giác.

Achaan Sujin: Từ bây giờ không còn gì khác ngoài đối tượng thị giác thôi, đúng không?

Người hỏi: Con luôn hiểu là có đối tượng thị giác trước, tiếp theo là suy nghĩ.

Achaan Sujin: Nếu bạn luôn nhớ được điều đó thì điều đó rất là tốt. Tại sao điều đó không bị quên?

Người hỏi: Thực ra là con được nghe, nhắc nhở thường xuyên về thực tại nên có sự hướng tâm một cách tự nhiên.

Achaan Sujin:Làm thế nào để được nhắc nhở thường xuyên?

Người hỏi: Thì phải gần gũi, nghe những người có hiểu sâu sắc về điều này

Achaan Sujin: Cần phải nghe đi nghe lại, chỉ nghe vào buổi sáng thôi có đủ không?

Người hỏi: Chưa ạ.

Achaan Sujin: Tất cả mọi thứ đều do duyên sinh, kể cả sự lãng quên cũng vậy. Ngay cả khi bạn nói rằng, đây là đối tượng thị giác thì lúc đó ngay lập tức đã có ý niệm biết đây là ai rồi, vì điều đó đã được tích lũy từ vô lượng kiếp. Thực chất, sở dĩ điều ấy xảy ra là do những màu sắc khác nhau tạo nên ý niệm về những hình khối khác nhau, và từ đó ý niệm về cái này hay cái kia được hình thành.

Sẽ rất hạnh phúc nếu tất cả các đệ tử của Đức Phật có thể nói: đây chỉ là đối tượng thị giác và điều đó đúng thật là vậy. Tôi nghĩ rằng từ giờ trở đi sẽ có những khoảnh khắc trong tâm bạn khởi lên ý nghĩ: “đây chỉ là đối tượng thị giác mà thôi”. Nó có xuất hiện nhiều lần hay không tùy thuộc vào duyên. Nó được duyên bởi việc đã được nghe và hiểu, dù chỉ ở mức độ tư duy, sự thật của mỗi khoảnh khắc đó là vô thường, sinh rồi diệt, và biết rằng không nên quên lãng việc ấy, đó chính là duyên cho những khoảnh khắc nhớ lại điều đó.

Chúng ta đi đến nhiều nơi đẹp đẽ chỉ để quên đi mà thôi. Kể cả những nơi dễ chịu như thế này, cũng chỉ để quên đi mà thôi. Còn hiểu biết chỉ có thể phát triển khi chúng ta không quên lãng và thường xuyên suy xét về thực tại. Trong một ngày, liệu ta có biết bao nhiêu lần sự thật này bị quên lãng? Bởi có rất nhiều kinh nghiệm khác nhau và tích lũy của vô minh thì rất nhiều, luôn luôn có mặt. Chính vì vậy, chân thật cũng được coi là một ba la mật.

 

Pháp đàm tại Huế, chiều ngày 24/05/14

           Người hỏi: Cá nhân con hoàn toàn đồng ý với những lời dạy của Achaan Sujin. Nhưng một số người bạn của con thì cho rằng như vậy thì chỉ là tích lũy hiểu biết lý thuyết. Vậy xin bà hãy giải thích rõ hơn về tiến trình của việc nghe và suy xét về thực tại, về quá trình để hiểu biết kinh nghiệm trực tiếp cái thấy của thực tại, về vô thường, khổ và vô ngã?

            Achaan Sujin:Chánh niệm là gì? Bạn nghĩ gì về chánh niệm?

            Người hỏi: Trước khi được nghe Achaan Sujin, con được nghe các thiền sư nói đó là sự hay biết, nhưng họ cũng nói chánh niệm có các mức độ khác nhau. Sự hay biết trong cuộc sống bình thường là chánh niệm ở mức độ thấp. Ở mức độ cao hơn thì nó là chánh niệm trong Bát chánh đạo. Con nghĩ có thể là do cách dùng ngôn từ.

            Achaan Sujin:Bạn nói rằng bạn đã nghe những vị thầy khác, đúng không? Thế còn những lời của Đức Phật thì sao?

            Người hỏi: Nếu xét dưới góc độ hiểu biết của Đức Phật, là trí tuệ hiểu biết về vô ngã. Khi Ngài nói đến chánh niệm thì lúc đó không còn có các khái niệm và các câu chuyện mà chỉ nói về thực tại, thì chánh niệm chỉ có thể là sativà nó là một tâm sở.

            Achaan Sujin: Tại khoảnh khắc của tâm thiện khi đó có chánh niệm không?

            Người hỏi: Có chánh niệm ạ

            Achaan Sujin: Vậy loại chánh niệm ở khoảnh khắc của thiện tâm bình thường có phải là loại chánh niệm hay biết đặc tính của thực tại hay không?

            Người hỏi: Không ạ

            Achaan Sujin: Ở khoảnh khắc bố thí thực sự, do mong muốn tốt đẹp cho người khác thì cái gì bố thí? Có phải là “bạn” bố thí không?

            Người hỏi: Đó là tâm sở vô tham ạ.

            Achaan Sujin: Bạn tự biết điều ấy hay sao?

            Người hỏi: Con được nghe Achaan Sujin nói như vậy.

            Achaan Sujin: Ở khoảnh khắc đang lắng nghe Giáo lý như thế này, có hiểu biết về đặc tính của tâm sở vô tham hay không?

            Người hỏi: Bắt đầu có sự chú tâm và suy xét vào điều này ạ.

            Achaan Sujin: Làm thế nào để bắt đầu có được cái hiểu trực tiếp về thực tại vô tham, cái là sự xả ly, không dính mắc? Ở khoảnh khắc của thiện tâm, có ít nhất 19 tâm sở tịnh hảo cùng sinh khởi với tâm ấy. Vậy tâm sở nào trong số đó được hiểu một cách trực tiếp, rõ ràng rằng đó không phải là đặc tính của các tâm sở khác? Khi có kinh nghiệm trực tiếp về các thực tại đó thì được gọi pháp hành- patipatti, nhưng nó không cùng ý nghĩa với cái mà người ta vẫn cho là thực hành.

            Có ba mức độ hiểu biết Giáo lý của Đức Phật: mức độ thứ nhất là nghe, suy xét, nghiên cứu về các thực tại để hiểu chúng là vô ngã. Khi cho rằng thực hành là một ai đó, một người nào đó tiến hành, thì đó là “tôi” tập trung vào một đối tượng nào đó được lựa chọn, với sự mong cầu và dính mắc vào đối tượng đó. Nhưng liệu ai sẽ đạt được gì khi bắt đầu như vậy? Cái đạt được vẫn là “tôi” mà thôi? Khi ấy không có sự xả ly với đối tượng và với thực tại đó, mà chỉ là ý niệm về ngã. Hiện giờ đang có sự dính mắc với cái được thấy mà không hề được nhận biết. Hiện giờ đối tượng thị giác đang sinh và diệt rất nhanh, cái còn lại chỉ là tướng của những gì đã sinh và diệt. Do nhiều tướng tiếp nối nhau mà ta có ý niệm về cái gì đó tồn tại kéo dài. Với sự vô minh về bản chất của thực tại đang sinh và diệt, luôn luôn có ý niệm về một ai đó, hay một cái gì đó, hay “tôi”. Cái thấy sinh khởi do duyên. Nhưng ai biết được điều đó? Hiện giờ aiđang thấy? Một cách trung thực thì aiđang thấy đây?

            Người dịch:“ Chúng ta” thấy,

            Achaan Sujin: Vậy thì đúng hay sai?

            Người dịch: Sai ạ

            Achaan Sujin: Đức Phật có nói rằng đó là một con người, một tự ngã thấy hay không? Tất cả những khoảnh khắc thấy cái gì đó xuất hiện thì chỉ là một yếu tố có tính chất thấy. Nó thấy và nó diệt ngay lập tức, nó không kéo dài, đó là Tứ Thánh Đế thứ nhất – Khổ đế. Sau khi cái thấy đã diệt đi, những màu khác nhau tạo duyên cho ý niệm về những người khác nhau, về những thứ khác nhau và chấp vào đó là thực, sự chấp thủ vào ý niệm đó chính là cái mà ta gọi là “ngã kiến”. Nếu chỉ có cái thấy mà không có suy nghĩ về những màu sắc và hình dạng khác nhau, sẽ không có ý niệm về những cái bàn, cái chai hay cái ly, và đó là lời dạy của Đức Phật. Nếu có cái hiểu ở ngay khoảnh khắc này, nó sẽ làm duyên cho một khoảnh khắc hiểu biết khác và dần dần sẽ làm duyên cho khoảnh khắc kinh nghiệm trực tiếp thực tại. Khi có khoảnh khắc kinh nghiệm trực tiếp thì là mức độ thứ hai mà ta gọi là pháp hành, patipatti. Dường như tất cả mọi người đều muốn ngay lập tức kinh nghiệm trực tiếp thực tại, ngay lúc này đây. Nhưng chừng nào vẫn còn sự dính mắc thì sẽ không thể có sự xả ly với việc cho những gì được kinh nghiệm là cái gì đó, hay là ai đó.

            Vậy làm thế nào để có được khoảnh khắc của pháp hành đây? Pháp hành là khoảnh khắc của sự sinh khởi củasamma-sati( chánh niệm), một pháp được tạo duyên bởi hiểu biết vững chắc ở mức độ tư duy. Cái là đối tượng của cái thấy hiện giờ là một thực tại khác với tất cả các thực tại khác. Nó là một yếu tố (giới- dhatu), nó có đặc tính riêng biệt mà không ai có thể thay đổi. Liệu ta có thể biến cái được thấy hiện giờ thành một thứ khác hay không? Cái thấy thì không phải là suy nghĩ về cái được thấy, đúng không? Nếu không hiểu biết rõ rằng cái thấy không phải là suy nghĩ về cái được thấy, sẽ không thể nào có được khoảnh khắc của pháp hành, tức kinh nghiệm trực tiếp điều đó. Như vậy nghĩa của từ “pháp hành” không phải như sự “thực hành” mà ta thường nghe. Ba mức độ của phát triển tuệ giác: pháp học-pháp hành-pháp thành đều liên quan đến nhau. Nếu không có hiểu biết vững vàng ở mức độ tư duy về các thực tại đang xuất hiện, không thể có duyên cho chánh niệm (samma-sati) sinh khởi và hay biết trực tiếp thực tại để giúp trí tuệ cùng với các chi khác của Bát Chánh Đạo có thể hiểu được đối tượng đó một cách rõ ràng. Đa phần mọi người nghĩ rằng đối tượng sẽ trở nên rõ ràng hơn, nhưng hiểu biết về đối tượng đó thì sao nào? Khi ta nói rằng bất cứ khi nào có chánh niệm thì đối tượng xuất hiện rõ ràng, có bao nhiêu khoảnh khắc các bạn xúc chạm trong một ngày? Và cái gì xuất hiện ở khoảnh khắc của sự xúc chạm? Chỉ là đặc tính cứng xuất hiện mà thôi, hay đã ngay lập tức có ý niệm về một “cái gì đó” rồi? Khi có xúc chạm và có ý nghĩ “đây là cái chai”, thì chứng tỏ đặc tính cứng không xuất hiện một cách rõ ràng như nó là.

Không ai có thể làm thay đổi đặc tính “được thấy” của đối tượng thị giác. Ngay sau khoảnh khắc có cái thấy, bắt đầu có hình và dạng xuất hiện. Liệu chúng ta đã có thể nói rằng đối tượng thị giác xuất hiện một cách rõ ràng, tức là không có một ai trong đó hay chưa? Xuất hiện với tính chất “chỉ là một thực tại có thể được thấy” mà thôi? Chỉ khoảnh khắc thực sự hiểu được điều đó thì mới là patipatti, từ thường được dịch là “thực hành”. Thực chất, patipattilà sự phát triển của hiểu biết ở mức độ trực tiếp. Nó phải rất tự nhiên, giống như bây giờ đây, không kèm theo ý niệm “tôi đang thực hành”. Ở khoảnh khắc có ý nghĩ “mình đang thực hành”, khi đó có ý niệm về một cái tôi, và nó không tự nhiên như bây giờ.

            Vậy làm thế nào có thể đến được khoảnh khắc của giác ngộ, hiểu được các thực tại như chúng là, giống như những gì mà Đức Phật đã dạy? Chúng ta là ai và Đấng Giác ngộ là ai? Chúng ta rất gần với Ngài hay chúng ta còn rất xa với Ngài? Như giữa bầu trời và mặt đất vậy. Hãy cứ suy xét từng từ, một cách kỹ lưỡng. Những lời dạy sai trái sẽ làm tổn hại Giáo lý của Đức Phật. Và một ngày nào đó, Giáo lý của Đức Phật sẽ không còn được hiểu đúng nữa.

Gần đây, trong dịp ngày lễ Phật đản, tôi có được phỏng vấn trên truyền hình của Thái lan, và người ta có nói rằng đất nước Thái lan là một đất nước Phật giáo. Nhưng nói chính xác hơn, đó là đất nước của những người là Phật tử nhưng lại không thực sự nghiên cứu Giáo lý của Đức Phật. Nếu như vậy thì là đúng hay sai đây? Đừng chỉ nhận danh hiệu, mà không nghiên cứu và hiểu biết thực sự về Giáo lý của Ngài. Ta sẽ có thể thấy được đâu là Giáo lý thực sự của Đức Phật và đâu không phải là Giáo lý thực sự của Đức Phật, bởi vì những gì mà Đức Phật dạy luôn luôn là những gì xuất hiện trong khoảnh khắc hiện giờ và là thực tại. Tất cả các kinh nghiệm quá khứ đã qua. Những gì sẽ xuất hiện trong tương lai vẫn chưa có duyên để sinh khởi. Vậy cái gì là sự thực và làm sao sự thực có thể được biết đây? Chỉ có thể ở khoảnh khắc mà nó xuất hiện, ngay bây giờ. Tìm hiểu Giáo lý của Đức Phật không phải chỉ là đọc thật nhiều sách và nghiên cứu thật nhiều từ, mà bắt đầu với cái hiểu rằng những gì là thực chính là cái mà Đức Phật gọi là pháp (dhammatrong tiếng Pali). Khi thuyết giảng, Ngài đã sử dụng tiếng Ma kiệt đà, là ngôn ngữ thông dụng ở vùng Ngài cư ngụ thời đó. Mỗi người ở thời điểm đó đều có thể hiểu được những gì Ngài dạy bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của họ.

 Hiểu về những thực tại đang xuất hiện, ta có thể hiểu được những gì mà Đức Phật dạy, chẳng hạn như Tứ Thánh Đế,18 giới, hay 12 xứ… Hiểu biết đúng phải bắt đầu ngay bây giờ. Bằng việc bắt đầu hiểu về các thực tại sinh khởi là vô ngã. Vậy chúng là gì, theo nghĩa tuyệt đối? Nếu không có Giáo lý thì trong cuộc sống sẽ luôn là ý niệm “tôi thấy”, “tôi nghe”, “tôi vui”, “tôi buồn” v.v…. Nhưng nếu những thực tại ấy không sinh khởi thì cái gọi là ‘tôi” nằm ở đâu? Ai biết được rằng cái thấy chỉ là thấy, không có ai trong đó? Cái thấy sinh và diệt, nó không tồn tại mãi. Nó ở đâu trước khi nó sinh ra và sau khi nó diệt đi? Chỉ có vô minh không hiểu được thực tại mới cho rằng những gì xuất hiện là ta và của ta. Có gì thuộc về bạn hay không? Bạn có sở hữu gì không? Tại sao? Ta không sở hữu cả thân mà chúng ta vẫn cho là của ta. Khi tâm không còn sinh khởi nữa thì thân cũng chẳng làm được gì cả. Bởi vì thân chỉ là sắc, bản thân nó không kinh nghiệm gì cả. Vậy cái gì thuộc về bạn? Mọi thứ đều sinh và diệt. Nhưng với vô minh, ta dính mắc vào tướng để lại bởi sự sinh diệt đó. Dường như lúc nào cũng có cái thấy, nhưng thực chất cái thấy sinh và diệt trong mỗi khoảnh khắc. Có cái thấy ở khoảnh khắc của cái nghe không? Chúng ta học để biết rằng tâm sinh khởi kinh nghiệm một đối tượng ở một khoảnh khắc và rồi diệt đi. Ta biết những gì về cái đang kinh nghiệm hiện giờ, khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác? Chúng ta chỉ để ý đến cái được kinh nghiệm. Khi tâm sinh khởi kinh nghiệm nó, không có suy nghĩ về đặc tính của cái sinh khởi để kinh nghiệm. Ở khoảnh khắc của cái thấy, ta coi cái được thấy là một cái gì đó. Thế còn thực tại sinh khởi để thấy và rồi diệt đi ngay thì sao? Hiện giờ không có ai thực hành cả, nhưng liệu có thể có một chút hiểu biết từ việc nghe này? Khi thực sự có niềm tin rằng cái duy nhất có thể được hiểu là những gì đang xuất hiện hiện giờ thì không có thời gian để suy nghĩ “tôi sẽ thực hành”. Nếu “thực hành” là “làm gì đó” thì thực hành không phải là hiểu biết.

 

Pháp đàm tại Sài gòn, sáng ngày 01/01/2015

Jonothan: Như Achaan Sujin đã nói, pháp học chính là hiểu biết đúng về các pháp “đang sinh khởi” trong khoảnh khắc hiện tại. Nếu không biết về các pháp mà Đức Phật đã thuyết giảng, sẽ không thể bắt đầu phát triển hiểu biết về các pháp ấy. Điểm mấu chốt ở đây là, hiểu biết đúng không đến từ việc đi theo một cách thực hành hay một kỹ thuật cụ thể nào đó, mà tới từ việc nhận biết và hiểu đúng bản chất của các pháp sinh khởi trong khoảnh khắc hiện tại. Tính chất của chúng là gì?

Tôi muốn nói thêm một chút về phương pháp thực hành “ngồi thoải mái tự nhiên rồi chỉ đơn thuần ghi nhận những gì xuất hiện qua sáu căn”. Achaan Sujin đã nói rằng, có thể chúng ta không nhận ra mục tiêu sâu kín bị che giấu khi thực hành theo một cách cụ thể. Tôi nghĩ rằng có một giả định chung nằm sau tất cả các ý định thực hành, đó là: tập trung vào một số thực tại cụ thể sẽ làm cho hiểu biết về các thực tại đó tăng trưởng. Nhưng giả định đó đã bỏ qua hoặc không biết được rằng, trên thực tế chỉ có duy nhất một thực tại là trí tuệ là thứ có khả năng hiểu đúng bản chất của các pháp. Chỉ có trí tuệ mới thực sự tiếp cận và chú ý đến thực tại. Khi cố tập trung hay cố chú ý đến các thực tại, thực chất cái ta chú ý tới lại không phải là các pháp chân đế đang sinh khởi, mà chính là ý niệm của chúng ta về chúng

Achaan Sujin: Tôi nghĩ rằng cách duy nhất thấy được mối liên hệ giữa saccañāṇa (tuệ học Tứ Thánh Đế) và pháp học (pariyatti) chính là khoảnh khắc này. Khi hiểu biết ở mức độ lý thuyết còn yếu ớt, nó chưa thể được gọi là saccañāṇaSaccañāṇakhông có nghĩa là chỉ đơn thuần nghe về Giáo lý, mà phải có niềm tin chắc chắn vào những gì đã được nghe. Hiện giờ cái thấycó diệt không? Có niềm tin chắc chắn vào điều ấy hay không? Liệu đó chỉ là cái hiểu ở mức độ ngôn từ, hay là niềm tin chắc chắn mà có thể được gọi là saccañāṇa?

Nếu không có sự tin tưởng chắc chắn, tức là không có saccañāṇa,hay hiểu biết vững vàng về các pháp hiện khởi, nó sẽ dẫn ta tới sự tìm kiếm một nơi chốn nào đó, hay một kỹ thuật cụ thể, thay cho việc tìm hiểu cái đang xuất hiện. Sự thiếu vững vàng ấy sẽ không thể dẫn tới mức độ của hiểu biết mà ta gọi là pháp hành (paṭipatti).Tương ứng với “pháp hành” là “tuệ hiểu phận sự Tứ Thánh Đế” (kiccañāṇa). Ý nghĩa thực sự của từ pháp hành không có nghĩa là “một ai đấy làm sự thực hành nào đấy”.Ý nghĩa thực sự của pháp hành là những khoảnh khắc chánh niệmcùng trí tuệ sinh khởi, tiệm cận với đặc tính của thực tại hiện khởi. Khi đó sẽ có trí tuệ hiểu được rõ sự khác biệt giữa khoảnh khắc có chánh niệmvà khoảnh khắc không có chánh niệm, chứ không có một cái “tôi” nào đó đang làm điều gì đó. Ở khoảnh khắc ấy tính chất của chánh niệmcũng xuất hiện rõ ràng, cũng có hiểu biết rõ rằng việc hay biết về một thực tại nào đó được thực hiện bởi một thực tại-một pháp, chứ không phải một con người. Khi đó sẽ thấy rõ rằng không có một con người nào có thể lựa chọn đối tượng cho chánh niệmvà trí tuệ. Chính vì vậy, nếu không có saccañāṇa thì không thể có kiccañāṇa hay nói cách khác nếu không có pháp học thì sẽ không thể có pháp hành.

Đây chính là cách thức để xả ly, buông bỏ với những gì xuất hiện, nhưng dần dần từng chút một. Con đường này là vô cùng vi tế, vô cùng khó khăn bởi vì nó luôn luôn phải đi kèm với hiểu biết về vô ngã. Con đường đó phải hoàn toàn cách ly với “ông chủ lớn”, đó là tâm tham. Tham luôn dẫn ta đi con đường sai, con đường phi đạo. Chẳng hạn, một người hỏi đơn giản như: “liệu có nên đi đến trường thiền hay không?” Cũng cần phải có trí tuệ để biết rõ mục đích đi đến đó để làm gì. Về mặt bản chất, đó không phải là quyết định của một người nào cả, mà chỉ là quyết định của trí tuệ hay quyết định của vô minh.Tham và vô minh thì luôn muốn làmcái gì đó cho bản thân, còn trí tuệ thì hiểu cái đang xuất hiệnCái đang sinh và diệt hiện giờ không chờ đợi ai hiểu chúng. Chỉ có hiểu biết đã được phát triển mới có thể tạo duyên cho chánh niệmsinh khởi và hay biết thực tại. Khi đó dần dần sẽ học được rằng, đó chính là sự phát triển của trí tuệ, bởi tự thân nó chứ không phải bởi một “con người”. Nếu không có chánh kiếnhay hiểu biết đúng, sẽ không có con đường Bát Chánh Đạo, không thể có cách nào để hiểu được từng thực tại một.

Jonothan: Ý niệm thực hành thường tới từ việc không biết rằng trước tiên cần phải có hiểu biết rõ ràng về ý nghĩa của chánh niệmvà trí tuệ. Khi ấy người ta cho rằng, thay cho phải có saccañāṇatrước thì cần phải thực hành trước, tức là phải có kiccañāṇa trước. Mục tiêu của việc hành thiền ở thời Đức Phật là gì?

Người hỏi: Mục tiêu hành thiền ở thời Đức Phật là để phát triển thiện tâm, tâm sở tịnh hảo, để làm duyên cho hiểu biết sinh khởi, để biết được tột cùng là không có ai cả, để biết được các pháp sinh khởi.

Achaan Sujin: Phát triển thiện tâm không được thực hiện bởi “tự ngã” mà bởi chính hiểu biết về thiện tâm. Nếu có một hiểu biết rất vững vàng rằng, tất cả các pháp là vô ngã, thì đó là con đường an toàn. Bởi chỉ hiểu biết đúng mới có thể đảm nhận chức năng xả ly, để không còn dính mắc vào những thứ xuất hiện như con người và cảnh vật.

Sarah: Tôi chỉ muốn nói thêm rằng, khi có một hiểu biết vững vàng hay saccañāṇacó được từ việc nghiên cứu Giáo lý, ta sẽ không cố “điều đình” các tình huống khác nhau. Ở đây, “điều đình” có nghĩa là suy nghĩ rằng “khi nào có thời gian hơn, bớt bận bịu hơn thì mình sẽ có thêm khả năng dành thời gian cho phát triển hiểu biết”. Hoặc suy nghĩrằng, “nếu bây giờ ta đi đến một ngôi chùa hay nơi yên tĩnh thì sẽ có thêm thiện pháp hay hiểu biết”. Ta cũng sẽ không nghĩ rằng “mặc dù biết phát triển hiểu biết không phải là tập trung vào những đối tượng nào đó, nhưng nếu như mình có thể ngồi một cách thoải mái, cứ để tự nhiên hay biết thì khi đó sẽ có chánh niệmtăng trưởng”. Trong mỗi trường hợp vừa kể trên, ta có xu hướng nghĩ rằng có một thời điểm khác, một hoàn cảnh khác phù hợp hơn với sự phát triển hiểu biết, như vậy ta luôn quên mất khoảnh khắc hiện tại, xa rời khoảnh khắc hiện tại. Ta quên rằng luôn luôn có các thực tại như thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm, bất kể ta đang ở tư thế nào, đi, đứng hay nằm, hay ở đâu.

Điều đó chỉ ra rằng ta chưa có niềm tin rằng thực tại hiện giờ có thể được biết và có thể được hiểu đúng bởi trí tuệ. Ta có thể cho rằng, mình không có giới cấm thủ khi cố gắng thực hành, nhưng thực chất bất cứ khi nào có ý niệm thực hành theo cách này hay cách khác, cố gắng tập trung vào cái này hay cái kia, khi đó đã có giới cấm thủ rồi.Ngay hiện giờ, trong lúc chúng ta đang nghe về cái thấy và đối tượng thị giác, nếu có sinh khởi ý muốn cố nắm bắt xem cái thấy là gì, đối tượng thị giác là gì, thì đã có giới cấm thủ ở đó rồi. Bởi vì khi đó vẫn là ý niệm về ngã cố gắng hay biết, cố gắng hiểu biết. Saccañāṇalà niềm tin rất vững vàng về những gì sinh khởi hiện giờ, các pháp hiện giờ đều sinh khởi do duyên mà không phải do ai kiểm soát. Như Achaan Sujin đã nói, những gì sinh và diệt hiện giờ không đợi ai hay biết chúng. Ta có thể nghĩ bây giờ mình sẽ cố gắng nắm bắt được đối tượng thị giác, nhưng đối tượng thị giácthì đã diệt đi rồi, nó không thể chờ đợi ai nắm bắt nó. Như vậy, vô ngã có nghĩa là không có một sự cố ý bởi một chủ thể nào, chứ không phải là “bây giờ hiểu rằng mọi thứ là tự nhiên và “ta” sẽ ghi nhận những gì sinh khởi.”

Con đường phát triển tuệ giác là vô cùng vi tế, vì thế chúng ta cần phải nghe rất nhiều về các thực tại đang sinh khởi hiện giờ. Nghe đi nghe lại thì có thể hiểu rằng không có một con người nào, một “tự ngã” nào có thể làm được điều đó. Đây chính là con đường duy nhất, con đườngBát chánh đạomà Đức Phật đã dạy, con đường đó được thực hiện không phải bởi một người nào, không thuộc sự kiểm soát của con người nào. Như Achaan Sujin cùng ông Jonothan vừa nói, nếu không có hiểu biết kiên cố và vững vàng rằng, tất cả các pháp là vô ngã thì sẽ không đủ sức mạnh để có thể làm duyên cho trí tuệ cùng với chánh niệm“kinh nghiệm trực tiếp” thực tại khi chúng xuất hiện. Như vậy, sẽ không có kiccañāṇa nếu không có saccañāṇalàm tiền đề, cũng như không có pháp hành nếu không có pháp học làm tiền đề. Không thể có con đường tắt.

 

Pháp đàm tại Sài gòn, sáng ngày 02/01/2016

Người hỏi: Ở Việt nam, có hai phương hướng phát triển việc tu học: một nhóm là học đầy đủ Giáo lý Tiểu, Trung, Cao của bộ Vô Tỷ Pháp, một nhóm thì cho rằng không cần học Giáo lý, chỉ cần thực hành theo sự hướng dẫn của một vị sư. Trong hai hướng đó, phương hướng nào sẽ cho kết quả nhiều hơn?

Sarah: Tôi không ủng hộ cả hai nhóm mà bạn vừa nói. Bởi vì khi nói tới học một cách hệ thống, trường lớp là nói đến học Giáo Pháp theo một cách sách vở, nắm bắt các con số và ghi nhớ những thuật ngữ, v.v…Một số người có thể học hệ thống và nhớ rõ các phần trong Tam Tạng, nhưng hiểu biết từ những gì họ tiếp nhận thì như thế nào? Có người có thể học thuộc lòng một cuốn sách về y học, về kỹ thuật, v.v… thì cũng có thể học thuộc lòng cuốn Vi Diệu Pháp, nhưng cái hiểu hiện giờ về cái thấy thì sao? Ta có thể được coi là một học giả lỗi lạc hay một bậc thầy về Vi Diệu Pháp, nhưng nếu không có cái hiểu về cái gọi là cuộc sống tại chính khoảnh khắc này thì những kiến thức kia sẽ là không hữu ích. Như Achaan Sujin đã nói, chúng ta cần suy xét mỗi từ một cách kỹ lưỡng, chẳng hạn như từ “moha” (si). Mặc dù chúng ta có thể nghe thuyết giảng về các pháp khác nhau, nhưng nếu ở khoảnh khắc đó không có sự suy xét về pháp đang có mặt hiện giờ, nếu không phải là khoảnh khắc của bố thí, trì giới thì sẽ là khoảnh khắc của si, như nó đang hiện diện xen kẽ ngay lúc này đây. Ta cũng có thể đọc sách và biết rằng có hai loại tâm căn si, biết tên gọi của nó, rồi cố nắm bắt xem tâm căn si là tâm nào, tất cả những cái đó đều là những khoảnh khắc có si hiện diện.

Vừa rồi bà Nina có nói, chúng ta có thể có ý nghĩ cố nắm bắt cái thấy, cố nắm bắt đối tượng thị giác, như vậy ngay cả khi ta tham dự pháp đàm này, do thúc đẩy của mong muốn đạt kết quả, chúng ta sẽ có những nỗ lực sai lầm. Khi Achaan Sujin đề cập đến Pháp học, tìm hiểu Giáo lý, bà không nói đến việc tìm hiểu một cách hệ thống, trường lớp về Giáo lý. Ở đây, cái mà Achaan Sujin nói đến là việc lắng nghe và suy xét Giáo lý một cách cẩn thận về những gì được nói tới, về những gì đang xuất hiện hiện giờ. Mấu chốt không phải là tìm hiểu được bao nhiêu chi tiết trong Giáo lý, hay khoảng thời gian mà ta dành cho việc tìm hiểu như vậy nhiều chừng nào, mà là mức độ hiểu biết đúng về pháp xuất hiện trong cuộc sống. Điều đó tùy thuộc vào việc có được những khoảnh khắc sống một mình, độc cư với pháp, hay thay cho điều đó lại vẫn có ý niệm “tôi đang ngồi trong pháp đàm và đang nghe cô Sarah”.

            Đối với nhóm thứ hai, cho rằng không cần tìm hiểu Giáo lý, chỉ nghe vị thầy hướng dẫn phương pháp thực hành và theo phương pháp thực hành đó. Vậy ở đây câu hỏi đặt ra là: Liệu mình có nên làm theo điều người khác bảo mình làm hay không? Chẳng hạn, nếu ai đó bảo chúng ta hãy đi chậm để có thể hiểu thêm về các pháp hay hãy chú tâm vào hơi thở để có thể hiểu pháp, điều đó có hợp lý không? Ta có thể đặt câu hỏi: Ailà người nghe những hướng dẫn, ailà người theo phương pháp, ailà người thực hành? Ở những khoảnh khắc đó, có sự hiểu biết nào về các pháp là vô ngã, không nằm trong sự kiểm soát của ai cả hay không? Hay khi đó có ý niệm “tôimuốn làm điều này, tôimuốn làm điều kia, tôimuốn đạt được kết quả và tôisẽ theo phương pháp như thế này”. Khi ta chỉ đơn thuần học một cách hệ thống và sách vở, hay đơn thuần đi theo những lời hướng dẫn để đạt một kết quả, thì đằng sau đó đều là ý niệm về ngã muốn đạt điều này, điều kia, để đi tới kết quả nào đó. Vừa rồi, chúng ta đã nghe về hai nhóm nhân: nhóm nhân bất thiện và nhóm nhân thiện. Ta có thể thấy rằng dù bất cứ hoàn cảnh nào, dù đang tham dự pháp đàm, theo hướng dẫn nào đó hay đang đọc sách, v.v… thì đều có thể có khoảnh khắc hiện diện của những nhân mà chúng ta đang nói đến: có khoảnh khắc của vô minh, có khoảnh khắc hiểu biết về pháp hiện khởi.

            Người hỏi: Như vậy chúng ta có nên học Giáo Pháp của Đức Phật không? Nếu không học Pháp của Đức Phật thì làm sao ta biết được về những kinh nghiệm mà chúng ta đang có hiện giờ?

            Sarah: Học Giáo Pháp của Đức Phật theo ý bạn là như thế nào?

            Người hỏi: Học rõ về những trạng thái phát sinh lên của các pháp. Ví dụ trạng thái của tham, trạng thái của sân hay trạng thái của thiện, để mình nhận biết nó. Có như thế thì mới biết làm thế nào để tu tập.

            Nina: Câu hỏi “làm như thế nào?” chứng tỏ ta đang bị thúc đẩy bởi vô minh và dính mắc vào kết quả. Thật hữu ích khi được Achaan Sujin nhắc nhở rằng “động cơ nào nằm đằng sau câu hỏi “làm như thế nào?””. Tôi rất trân quý điều ông Jonothan nói rằng “Chúng ta có thể thấy rằng rất ít hiểu biết sinh khởi còn vô minh thì sinh khởi thường xuyên”. Câu hỏi “làm như thế nào” không phải là của riêng ai, bởi trong chúng ta đều có rất nhiều vô minh và bất thiện. Tuy nhiên lời nhắc nhở thì có thể giúp chúng ta thấy được sự thật ở khoảnh khắc đó. Tôi thấy rằng Achaan Sujin thường đặt câu hỏi: “điều gì thúc đẩy chúng ta đặt câu hỏi này?” Đôi khi chúng ta đặt một câu hỏi và chỉ mong muốn có được câu trả lời thẳng vào câu hỏi của mình mà không thấy rằng, thật hữu ích khi có thể thấy được động cơ câu hỏi mình đặt ra là do tham, do dính mắc vào ý niệm về ngã, hay điều gì khác đằng sau đó. Chúng ta cũng có thể tự hỏi mình khi đang đặt câu hỏi “liệu nên theo phương án một hay phương án hai” chẳng hạn, mình có nhận biết được pháp do duyên sinh hiện hữu hay không?

            Người hỏi: Con hiểu ý bà nói là nếu học nhiều mà không đem ra ứng dụng trong đời sống tu tập thì chỉ giống như thư viện thôi. Vậy con hỏi thêm, bà đang giảng Pháp và những người đang nghe dưới này có phải là đang học không?

            Jonothan: Quay trở lại với câu hỏi ban đầu của bạn về hai đường lối. Theo tôi, chúng ta không nên coi đó là hai thứ riêng biệt, Bởi vì ý nghĩa thực sự của từ “tìm hiểu” hay “nghiên cứu” trong bối cảnh này chính là “hiểu đúng”. Nếu chúng ta nghiên cứu Giáo Pháp không với mục tiêu là để có thể hiểu đúng hơn về khoảnh khắc hiện tại thì việc nghiên cứu đó sẽ trở nên vô dụng. Khi chúng ta tìm hiểu, lắng nghe, đàm thoại về Giáo Pháp với mục tiêu để hiểu về hiện tại, và tất cả những gì bàn tới đều liên quan tới giây phút hiện tại, thì điều đó có thể là duyên để hiểu về pháp hiện khởi. Khi hiểu biết không phải là mức độ hiểu biết tư duy mà là hiểu biết trực tiếp về thực tại, đó chính là pháp hành.

Ở thời Đức Phật cũng như bây giờ, việc tìm hiểu Giáo lý không phải là trước hết học rồi sau đó đem ra hành, mà là khi nghe Giáo lý thì có mức độ hiểu biết nào về khoảnh khắc hiện tại sinh khởi. Đó chính là lý do mà ở thời Đức Phật, khi Ngài thuyết giảng về các pháp chân đế, các xứ, các uẩn, các căn, đã có duyên cho sự sinh khởi của hiểu biết trực tiếp, thậm chí là giác ngộ ở những người nghe. Điều đó sở dĩ xảy ra không phải vì đầu tiên họ thực hành và rồi giác ngộ mà là vì họ nghe và hiểu đúng về những gì được nghe tới mức độ giác ngộ. Đương nhiên sở dĩ có những người lắng nghe Đức Phật và giác ngộ ngay lập tức là bởi họ đã có một mức độ tích lũy tuệ giác đủ để khi nghe Đức Phật thuyết giảng, họ có thể ngay lập tức hiểu lời thuyết pháp rất ngắn đó, và giác ngộ. Về phía mình, chúng ta cần thấy được rõ mức độ tích lũy hiểu biết hạn chế của mình và biết rằng chúng ta cần nghe rất nhiều để hiểu thêm nhiều chi tiết, khía cạnh về pháp hơn nữa để phát triển hiểu biết lớn dần hơn. Chúng ta cũng có thể thấy được rằng, cái chúng ta cần nghe ở giai đoạn này là về các thực tại hiện giờ có thể được hiểu, thay cho việc đi quá sâu vào những chi tiết về các pháp mà chúng ta không có cơ hội để hiểu chúng, vì chúng không xuất hiện trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta.

            Người hỏi: Trong Kinh Đức Phật có nói, nếu chư tỳ khưu không tụng đọc Giáo lý thì Giáo lý sẽ bị cấu uế. Vậy bà nghĩ sao về điều này?

            Sarah: Khi nói đến tụng đọc hay truyền tụng, là nói với hiểu biết hay không với hiểu biết? Chẳng hạn chúng ta có thể tụng bài kinh Pali mà hoàn toàn không có hiểu biết đúng về bài kinh đó, như vậy không có sự gìn giữ Giáo lý ở trong đó, nếu không có hiểu biết.

            Người hỏi: Ý tôi là cả hai, vừa có sự truyền tụng và vừa có cả sự hiểu biết.

            Jonothan: Vừa rồi cô Sarah nói “Bản chất của việc gìn giữ Giáo lý là việc gìn giữ hiểu biết đúng ngôn từ mà Đức Phật dạy”. Như vậy kể cả khi có ngôn từ mà không có hiểu biết đúng thì khi đó cũng không còn Giáo lý của Đức Phật nữa.

            Người hỏi: Như vậy là Chư tăng có nên nghiên cứu Tam Tạng Kinh điển để truyền bá, như cho câu hỏi “để có sự duy trì Giáo pháp này hay không?” Con vẫn chưa hiểu rõ về cách mà Bà dạy về lời giảng của Đức Phật?

            Sarah: Câu hỏi của bạn bao hàm từ “nên” hay “không nên”. Tất cả tùy thuộc vào khoảnh khắc mở cuốn sách: chẳng hạn, liệu có cái hiểu rằng đó là do những duyên khác nhau, hay là có một cái ngã làm việc đó

            Người hỏi: Đó là do các duyên khác nhau.

            Sarah: Bạn có nói đến các duyên, một trong những duyên đó là tích lũy khác nhau của mỗi người. Chúng ta ở đây có những tích lũy rất khác nhau, có người có tích lũy tìm hiểu chi tiết về Giáo lý như bạn, nhưng có người khác lại có tích lũy là chỉ nghe và suy xét về những gì được nghe. Có một số người, mặc dù họ không đọc những cuốn sách như Bộ Pháp Tụ, nhưng có tích lũy lắng nghe và suy xét rất cẩn thận về những gì được nghe. Vì vậy, sự phát triển hiểu biết đúng của họ về khoảnh khắc hiện tại theo đúng quỹ đạo, và điều đó tùy thuộc vào tích lũy của mỗi người

            Người hỏi: Nếu như những người đó không có duyên hội ngộ như thế này thì họ lắng nghe ai, làm sao họ tự phát trí tuệ lên được?

            Jonothan: Điểm đầu tiên cần nói tới đó là, bất cứ ai có hiểu biết đúng trong khi nghe Pháp đều dựa trên cơ sở là những hiểu biết đúng đã từng được tích lũy trong quá khứ. Một điểm nữa là, những gì họ được nghe trong kiếp này có phù hợp với những gì mà họ đã tích lũy về thiên hướng hiểu biết đã có trong quá khứ hay không? Với một người có thiên hướng học một cách hệ thống nhưng không có những tích lũy hiểu biết theo hướng kinh nghiệm trực tiếp thì việc nghiên cứu một cách bài bản đó có thể không tạo đủ duyên để hiểu biết trực tiếp của họ phát triển thêm trong kiếp sống này. Nhưng việc có gặp được một bậc thiện trí trong kiếp này hay không thì phụ thuộc vào nhiều điều kiện khác nhau. Thiện trí thức (hay thiện bạn hữu)là người mà ta có thể nghe và đàm luận Giáo Pháp với nhiều phương thức và mức độ khác nhau. Đó không có nghĩa là một người cụ thể nào đó, mà có thể là nhiều người khác nhau ở nhiều thời điểm khác nhau. Nó cũng có thể tới từ một người mà ta gọi là vị thầy, hay từ bạn đạo, hay từ một người đồng nghiệp cũng có mối quan tâm tới Giáo pháp. Như vậy, ta không cần phải nghĩ đến việc mình nên tới gặp ai để có thể lắng nghe Giáo lý. Nếu có cơ hội phù hợp xuất hiện thì sẽ có cơ hội cho hiểu biết đúng đắn về những gì được nghe, dựa vào những tích lũy đã có của mình. Giống như tất cả thứ khác trong cuộc sống, các pháp đều không nằm trong sự kiểm soát của ai cả.

 

Pháp đàm tại Sài gòn, chiều ngày 07/01/2016

Vị sư 2: Có lúc các vị nói tới ba mức độ của hiểu biết, gọi là “saccañāṇa, kiccañāṇa, và katañāṇa”. Có lúc lại dùng từ “pháp học, pháp hành, pháp thành”. Xin hãy giải thích sự khác biệt giữa hai nhóm?

Sarah: Sacca ñāṇa,kicca ñāṇa, và kata ñāṇa là nói đến trí hiểu Tứ Thánh Đế. Sacca nghĩa là chân lý- đế, ñāṇa là hiểu biết. Chẳng hạn hiện giờ chúng ta đang học về các thực tại khác nhau, về các căn tánh sinh khởi ngay trong khoảnh khắc hiện tại, hay về đối tượng thị giác. Chúng ta học về nhiều pháp khác nhau để sự hiểu biết về vô ngã về các pháp ngày càng củng cố. Khi có hiểu biết vững vàng và kiên cố rằng ngay ở khoảnh khắc này, cái thấy đang sinh và diệt, cái nghe đang sinh và diệt, sự sinh và diệt của những pháp ấy là khổ, không đáng để bám víu vào, khi đó có sự kiên định với khoảnh khắc hiện tại, không còn quay lưng với khoảnh khắc hiện tại nữa. Khi có hiểu biết rõ ràng rằng ở khoảnh khắc này chỉ có các thực tại là vô ngã không thể kiểm soát được, sẽ thấy rằng thật vô ích khi chúng ta nghĩ đến việc làm gì đó để thay đổi hay đi đến một nơi khác để thực hành, nơi đó có sự hiểu biết kiên cố về Tứ Thánh Đế. Hay về ánh sáng, bất kể ánh sáng mờ nhạt hay chói chang, thì về bản chất cũng vẫn chỉ là cái được thấy mà thôi. Như vậy khi nói đến sacca ñāṇa-trí học hiểu Tứ thánh đế- là nói đến một mức độ pháp học rất vững vàng, nó chính là tâm sở trí tuệ ở mức độ tư duy nhưng vô cùng kiên định. Hiểu biết kiên cố này không tùy thuộc vào việc ta có đọc toàn bộ Tam Tạng hay không, hay ta đã nghiên cứu tiếng Pali hoặc đã học nhiều vị thầy hay chưa, nó chỉ liên quan đến hiểu biết kiên cố về pháp hiện tại. Việc có được mức độ hiểu biết kiên cố, vững vàng như vậy là nhờ được nghe và suy xét rất nhiều để có thể thấy rằng không có một cách thức nào khác. Chính sacca ñāṇa sẽ là duyên cho sự sinh khởi của kicca ñāṇa-trí hiểu phận sự của Tứ Thánh Đế, tương đương với pháp hành. Đó là sự kinh nghiệm trực tiếp về các thực tại được đề cập trong Tứ Thánh Đế. Khi đó nó không còn là mức độ hiểu biết tư duy rằng ở khoảnh khắc này cái thấy thấy đối tượng thị giác, nó là vô ngã, không phải là ai cả… một cách vững vàng, mà ở khoảnh khắc đó đặc tính thực sự của đối tượng thị giác hoặc nhãn thức được kinh nghiệm trực tiếp. Như chúng ta đã nói nhiều lần, khoảnh khắc của kicca ñāṇa hay pháp hành chỉ có thể xảy ra nếu như có tiền đề trước đó là hiểu biết vững vàng về các pháp khác nhau trong khoảnh khắc hiện tại. Kicca ñāṇa hay trí hiểu phận sự của Tứ Thánh Đế sẽ là cái làm duyên cho katañāṇa-trí hiểu về sự hoàn tất của Tứ Thánh Đế, tương ứng với Pháp thành. Kata ñāṇa là các Tuệ minh sát cùng với đạo quả. Nói về những điều này để chúng ta nhấn mạnh rằng, cần phải có hiểu biết vững vàng ở mức độ tư duy để Tứ niệm xứ có thể sinh khởi, và sau đó là giác ngộ. Nếu mọi người cho rằng, trước hết phải thực hành rồi sau đó mới học pháp học, điều đó chỉ ra rằng chưa có hiểu biết đúng

            Vị sư 2: Kicca ñāṇa, trí biết về phận sự, tức là khoảnh khắc trí tuệ kinh nghiệm đặc tính của thực tại. Còn katañāṇalà những tuệ minh sát và đạo quả. Tuệ minh sát đầu tiên là tuệ phân biệt danh sắc thì khác gì với kiccañāṇalà trí kinh nghiệm khoảnh khắc của thực tại. Vậy hai điểm đó khác nhau như thế nào?

            Sarah: Khi nói đến kiccañāṇa-trí hiểu phận sự của Tứ Thánh Đế- là nói đến kinh nghiệm trực tiếp về các thực tại khác nhau, phải có hiểu biết trực tiếp về từng thực tại một, lặp đi lặp lại nhiều lần, thì sau đó mới có thể đưa tới tuệ minh sát thứ nhất là tuệ phân biệt danh sắc. Ví dụ hiện giờ có đối tượng thị giác và cái thấy, nếu có hiểu biết trực tiếp về các thực tại ấy, hiểu biết đó vẫn chưa phải là tuệ phân biệt danh sắc. Phải có sự lặp đi lặp lại hiểu biết ấy để đến một lúc nào đó tuệ phân biệt danh sắc mới có thể sinh khởi. Chúng ta thấy rằng, cần rất nhiều thời gian để từ chỗ kinh nghiệm được cái thấy hay đối tượng thị giác, cho đến khi có tuệ giác phân biệt các thực tại là danh và sắc.

Người bạn ở đây chia sẻ, có người chưa kinh nghiệm được các thực tại một cách riêng rẽ mà đã nói đến sự kinh nghiệm các tổ hợp sắc- kalapa thì là điều ko thể. Chắc chắn phải có sự xuyên thấu các pháp chân đế một cách trực tiếp nhiều lần thì sau đó mới có thể có được tuệ phân biệt danh sắc.

            Vị sư 1: Về phận sự của kicca ñāṇa, kinh nghiệm trực tiếp thực tại. Ví dụ phải có trí hiểu về tham, phải kinh nghiệm nhiều lần về tâm tham, hiểu tận tường cái tham, cảnh hỗ trợ cho tâm tham, phải hiểu rất nhiều chi tiết trong đó, có phải như vậy không? Hay đối với đối tượng thị giác thì phải kinh nghiệm nhiều lần mới biết được nó chỉ là sắc, lúc đó mới có thể phân biệt danh sắc, có phải như vậy không?

            Sarah: Chúng ta cần phải nhớ rằng khi nói đến kiccañāṇa là nói đến trí hiểu phận sự của Tứ Thánh Đế, như vậy nó phải hiểu rất rõ các thực tại khác nhau, về các thực tại là uẩn, tức là những thực tại sinh và diệt, và những thực tại này cũng là khổ – đó là Khổ đế. Cũng phải hiểu được nhân của nó là Tập đế, tức là hiểu được nguyên nhân của nó là do sự dính mắc và tham ái. Về Diệt đế tức niết bàn, thì chưa thể có sự liễu ngộ niết bàn bây giờ, điều đó tới về sau, nhưng điều đó có nghĩa là biết rằng, hiểu về các thực tại hữu vi sẽ dẫn đến chứng ngộ thực tại vô vi là niết bàn. Đạo đế chính là sự phát triển của Tứ niệm xứ, của Bát Chánh Đạo. Trí này cũng phải hiểu được phận sự của Thánh đế thứ tư. Hiện giờ chúng ta có thể thấy rằng, có đối tượng thị giác được thấy, và đối tượng thị giác chỉ là màu mà thôi, nó sinh và diệt, nó không tồn tại kéo dài. Như vậy sự dính mắc vào đối tượng thị giác ấy thật là nực cười, không phù hợp, bởi vì đó là sự dính mắc vào thứ đã diệt đi rồi. Chính sự dính mắc vào những thứ đã diệt đi rồi là cái tạo nên những rắc rối cho cuộc sống của chúng ta. Tất cả những rắc rối của cuộc sống đều xảy ra do sự dính mắc vào những thứ đã diệt đi rồi. Khi nói đến kiccañāṇalà nói đến sự liễu ngộ trực tiếp tính chất của các thực tại ấy, cũng như sự dính mắc vào chúng. Trong những khoảnh khắc ấy, cùng một lúc những chi khác của Bát chánh đạo sẽ được vun bồi như chánh tư duy, chánh định, chánh niệm, chánh tinh tấn. Chính vì vậy sự phát triển hiểu biết về các pháp chân đế ngay hiện giờ chính là con đường Bát Chánh Đạo dẫn tới sự tận diệt các phiền não và sự chứng ngộ pháp vô vi, không do duyên sinh tức niết bàn.

 

Pháp đàm tại Nha Trang, chiều ngày 07/04/2016

Người hỏi: Muốn hiểu về Giáo Pháp phải hiểu rõ từng từ một, muốn hiểu từng từ một hoặc nghe lại những buổi Pháp đàm hoặc đọc sách nhưng khi ta chủ động nghe đọc lại thì có tự ngã, ngay đó điều này làm mâu thuẫn thường xuyên xảy ra trong con. Vậy mình nên hiểu thế nào, không nên chủ động trong việc đọc nghe hay chờ đến khi đủ duyên để nghe đọc khi nào việc đọc nghe diễn ra mà không có tự ngã ngay đó?

Sarah: Thực chất ở mỗi khoảnh khắc đều không có tự ngã nào mà chỉ có các pháp chân đế mà thôi. Chính vì vậy, chúng ta có nói rằng luôn cần lắng nghe kỹ lưỡng và suy xét từng từ một, chẳng hạn như là từ phápdhamma.Ở khoảnh khắc này đang có pháp, cái thấy hiện giờ là pháp. Đối tượng thị giác là pháp, tất cả các pháp sinh khởi hiện giờ là do duyên tương ứng của nó. Cho rằng có một “cái tôi” đang cố ý đọc hay nghe, quyết định đi sang trái hay sang phải là hiểu sai về bản chất của pháp, bởi vì khi đó có sự chấp tưởng cho “tôi” là người có ý định làm việc này hay việc kia, “tôi” là người có ý định nghe hay đọc. Nhưng ở khoảnh khắc này, kể cả lúc đang nghe Pháp, cũng chỉ có các thực tại mà thôi. Như chúng ta đã nói trước đó, ở mỗi khoảnh khắc của tâm, luôn có tâm sở cetanatức là ý định hay tư ý sinh khởi. Vậy ở khoảnh khắc này, tư ý sinh khởi hướng về việc nghe Pháp, hay đi sang trái, sang phải cũng là một pháp sinh khởi do duyên chứ không phải là một cái tôi ở đó. Chẳng hạn như hiện giờ, có những lúc ta cũng cố ý nghe, nhưng có lúc khác, một điều gì đó khiến ta lơ đễnh và rồi không có hướng tới việc nghe nữa. Mỗi khoảnh khắc của thấy, của suy nghĩ hay ý định nào đó đều là vô ngã, không có con người nào ở đó. Khi ta nói rằng “tôi có ý định đi Nha Trang để dự Pháp đàm” thì ta đang nói về một câu chuyện dài. Trên thực tế, có rất nhiều khoảnh khắc diễn ra trong đó, và mỗi khoảnh khắc thì đều là các tâm và tâm sở khác nhau sinh khởi do những duyên cụ thể, và các sắc biểu hiện thành những cử động thì được tạo duyên bởi những tâm ấy. Vậy vấn đề không phải là lựa chọn giữa “tôi nên làm một cái gì đấy một cách chủ động” hay “tôi nên chờ đợi cho đủ duyên”. Khi ta cho rằng có một “cái tôi” chủ động làm gì hay không nên chủ động làm gì thì ở đó vẫn có ý niệm về một cái ngã quyết định điều ấy. Vì vậy, khi có hiểu biết hơn về các pháp là vô ngã thì sẽ không thấy có sự mâu thuẫn nào cả, cuộc sống sẽ tự tiếp diễn và tùy thuộc vào các duyên mà nó tiếp diễn theo cách này hay cách kia. Khi có đủ duyên cho có sự quan tâm tìm hiểu thêm Giáo pháp thì cũng sẽ có duyên cho việc tiếp tục nghe và tìm hiểu. Nhưng nếu không có mối quan tâm và cái hiểu thì sẽ không có duyên để tiếp tục lắng nghe và suy xét thêm. Đức Phật có cho ta ví dụ về những con gà ấp trứng, dù con gà ấp quả trứng đó có muốn hay không, nếu quả trứng đó không được con trống nhảy thì sẽ không thể trở thành gà con. Các pháp diễn ra tùy thuộc vào duyên chứ không phải tùy thuộc vào ý định làm điều này hay điều kia.

Achaan Sujin: Chúng ta đã nghe rằng tất cả các pháp là vô ngã rất nhiều rồi, tuy nhiên hiện giờ cái thấy đang diễn ra và cái thấy là pháp, là vô ngã, nhưng liệu đã có cái hiểu về tính chất vô ngã của cái thấy hiện giờ chưa? Bởi vì chúng ta vẫn chưa nghe đủ. Nó vẫn chưa ngấm đủ sâu để hiểu được rằng khoảnh khắc này chỉ là pháp thôi, không phải là mình, không phải là tôi, nó bị che lấp bởi cái đã tồn tại với chúng ta rất lâu rồi, đó là vô minh và dính mắc. Khi ấy mọi từ ta đọc đều với tham và vô minh, và nếu thực tại ta đọc về không được nhận biết ở khoảnh khắc nó hiện diện thì nó vẫn luôn bị chấp tưởng là tôi, và vì thế tiếp tục câu hỏi “liệu tôi nên làm điều này hay điều kia?”.

Ở khoảnh khắc này, không chỉ có tâm sinh khởi mà cũng có cả các tâm sở sinh khởi cùng với tâm, có pháp nào được nhận ra là vô ngã hay không? Vì vậy, đừng mong đợi gì cả, bởi vì sẽ còn rất xa để có thể thực sự liễu ngộ được các pháp là vô ngã. Có rất nhiều tâm sở đang sinh khởi hiện giờ, có tâm sở nào được nhận biết hay không? Dù ta có biết đến tâm sở nào đó, ta cũng không biết nó là vô ngã, không phải là mình, hiện giờ vẫn là ý niệm “tôi thấy” -chắc chắn là như thế, bởi vì cái thấy đã sinh và diệt và không có cái hiểu rằng đó không phải là tôi. Thông thường, các pháp xuất hiện với tham, sân và si suốt cả ngày, suốt cả tháng và suốt cả năm. Luôn có vô minh và dính mắc nên thật không dễ để hiểu được rằng, hiện giờ đang có cái thấy sinh khởi để thấy và rồi nó diệt đi ngay lập tức. Nhưng mỗi khoảnh khắc hiểu biết nhỏ nhoi sẽ dần phát triển thêm một cách tự nhiên. Điều đó diễn ra một cách độc lập với sự mong cầu, sắp xếp hay lên kế hoạch với những câu hỏi “tôi nên làm gì hay tôi không nên làm gì”.

Khi nói rằng tất cả chúng đều là pháp thì ta phải hiểu thực sự từng pháp một. Chúng ta phải biết rõ từng pháp đó là vô ngã. Nếu không, khi chúng xuất hiện chúng ta sẽ chấp tưởng đó là ngã, là mình, bất kể ta có nghe bao nhiêu lần đi nữa. Cái được thấy chỉ là đối tượng thị giác nhưng bất cứ khi nào ta thấy thì lại thấy con người, những cảnh vật khác nhau. Vì vậy, cần phải nghe rất nhiều. Phải cần đến nhiều tháng, nhiều năm, nghe đi nghe lại vô số lần để có thể bắt đầu hiểu một cách tự nhiên rằng, hiện giờ không có cái gì ở đó cả và không ai có thể tạo ra hiểu biết. Nó chỉ toàn hoàn phụ thuộc vào tiến trình phát triển hiểu biết một cách tự nhiên mà thôi. Bên cạnh cái thấy có sự xúc chạm. Nó chỉ sinh khởi một lần trong vòng sinh tử luân hồi rồi diệt đi, nhưng ý niệm cho cái được xúc chạm là một cái gì đó thì đã hình thành và diễn ra suốt cả ngày.        

Hãy có niềm tin nơi trí tuệ, rằng nó có thể được phát triển một cách từ từ, không ai có thể vội vã cố làm nó phát triển nhanh thêm. Khi muốn nó phát triển nhanh như vậy là khoảnh khắc của vô minh và dính mắc chứ không phải hiểu biết. Và khi nào vô minh cùng tham ái có mặt thì trí tuệ không thể sinh khởi. Cái có thể lật tẩy bản chất của các pháp ở khoảnh khắc này chỉ có thể là những lời chân lý. Khoảnh khắc có ý niệm “làm thế nào để tôi có thể đạt được” thì suy nghĩ ấy cũng là pháp, nhưng bản chất ấy của nó lại không được nhận ra.

 

Pháp đàm tại Đà lạt, chiều ngày 12/05/2015

          Vị sư 3: Sư muốn trở lại câu chuyện về ngài Pothila hôm trước. Sư sẽ thuật lại câu chuyện này cho những người không biết câu chuyện này cùng rõ. Ngài Pothila là một vị tinh thông Tam Tạng, dưới sự hướng dẫn của Ngài có nhiều vị học trò đã chứng thánh. Nhưng mỗi lần gặp Đức Phật, Đức Phật nhắc nhở là “ông Sư rỗng”, nhiều lần như vậy làm duyên khiến cho vị này rời khỏi hội chúng và đi tới một nơi riêng. Nếu đọc đoạn này, với cái hiểu thông thường của mọi người, thì sẽ đặt câu hỏi: Nếu Pothila thông Tam Tạng, và sự diễn tiến của các duyên sẽ đưa tới sự giác ngộ mà không có cố gắng nào hết, thì tại sao sau một thời gian rất dài, ngài không chứng được đạo quả, vậy mà chỉ sau một thời gian rời khỏi hội chúng ngài đã đắc đạo quả. Vậy Achaan Sujin hãy giải thích thêm đoạn này, để cho mọi người được có thể hiểu về bài kinh này không lệch lạc.

            Achaan Sujin: Tôi nghĩ rằng, không chỉ bản thân ngài Pothila, mà bất cứ ai, nếu chừng nào còn có ý niệm về “tôi”, thì ý niệm đó đều không thể đưa tới sự giác ngộ. Tất cả những cái tên như Pothila, Sariputta hay Moggalana đều chỉ là cái tên chế định nói về các thực tại mà thôi. Vậy thực tại nào có thể hiểu được những gì xuất hiện hiện giờ một cách đúng đắn? Điều đó quan trọng hơn là nghĩ đến người này hay người kia. Bởi vì về mặt tối hậu, không có con người, không có đồ vật nào mà chỉ có các pháp chân đế mà thôi. Ở khoảnh khắc không có cái hiểu rằng không có ai ở đó, khi đó chỉ là sự sinh khởi của vô minh. Nếu không có vô minh thì sẽ không có những pháp bất thiện, như tham ái hay các loại phiền não khác. Bất kể chúng ta nói về ai thì phải đặt câu hỏi, khi đó thực tại là gì? Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta không có cái hiểu về những thứ mà chúng ta vẫn chấp là tự ngã. Nếu không có sự sinh khởi của tâm thì có ý niệm về tôi hay chúng sinh hay không? Ai hiểu tâm hiện giờ? Có thực tại là cái thấy, nó không phải là ai cả, nó chỉ sinh khởi và làm công việc nhận biết đối tượng thị giác. Vô minh không thể hiểu được điều đó. Làm sao có thể có cái hiểu về những gì xuất hiện hiện giờ nếu không có Giáo lý của Đức Phật? Dù là ngài Pothila, Sariputta hay Moggalana thì họ đều là những đệ tử của Đức Phật và đều nghe Pháp từ Đức Phật. Điều đó có nghĩa rằng, thực tại là tâm sở trí tuệ có thể được phát triển đến mức độ giác ngộ.

Chỉ ai biết được đâu là thiện bạn hữu thì mới đi theo những lời dạy của thiện bạn hữu thực sự chứ không theo những lời dạy của người khác. Sau khi Đức Phật giác ngộ, ngài đã không nghĩ đến việc giáo hóa chúng sinh, mà chiêm nghiệm sự thâm sâu của Giáo Pháp. Ý nghĩa của giác ngộ là sự xuyên thấu các thực tại như cái thấy, hay các thực tại khác, từng thứ một. Nghĩa của từ patipatti -pháp hành là tiếp cận thực tại với trí tuệ và chánh niệm, (từ này thường được dịch sang tiếng Việt là thực hành). Đức Phật đã dạy rằng tất cả các pháp là vô ngã. Anatta, tiếng Pali có nghĩa là không có tự ngã, không có chủ thể, không có sự kiểm soát. Bởi vì, nếu không có duyên thì không gì có thể sinh khởi. Chẳng hạn như hiện giờ, cái thấy lệ thuộc vào thực tại có thể in dấu lên nhãn căn tức đối tượng thị giác và nhãn căn. Không ai có thể làm cho nhãn căn sinh khởi. Một khoảnh khắc đơn giản như cái thấy cũng do duyên, không có ai ở khoảnh khắc cái thấy, không có con người nào, không ai có thể kiểm soát. Đó là ý nghĩa của từ vô ngã, anatta. Liệu điều đó có thể được biết chỉ bằng việc đi hay ngồi hay không? Hay nó tới từ việc nghe và suy xét một cách rất sâu sắc về những lời trong Giáo lý.

Đức Phật đã thuyết giảng với rất nhiều ngôn từ khác nhau, với những phương cách khác nhau, cốt để giúp chúng ta hiểu được ý nghĩa của vô ngã. Vậy ai là thiện trí thức của bạn? Chỉ có Đức Phật mà thôi. Vậy thì chúng ta sẽ nghe Đức Phật hay nghe ai? Chúng ta cần phải nghe lời dạy của chính Đức Phật. Dù đó là ngài Pothila, Sariputta, hay bất cứ ai khác, liệu họ có thể giác ngộ nếu không có khoảnh khắc của tuệ minh sát hiểu biết về các thực tại? Hiểu biết về thực tại tới từ việc nghe. Chẳng hạn, ở mỗi một khoảnh khắc chỉ có một tâm sinh khởi. Đó là tính chất của tâm, nếu tâm đó không diệt đi thì không thể có tâm tiếp theo sinh khởi. Đó không phải chỉ là lý thuyết, mà nó có thể thực sự được chứng ngộ khi trí tuệ phát triển thêm. Hiện giờ có đủ niềm tin là thực tại có thể được biết một cách trực tiếp khi hiểu biết sẽ trở nên sâu sắc hơn hay không? Nếu không thì sẽ luôn luôn có sự dính mắc và vô minh với những gì xuất hiện.

Những người biết về Giáo lý của Đức Phật có thể đã được nghe từ ngũ uẩn thủ. Thủ -(upadana) có nghĩa là sự dính mắc mạnh mẽ, chấp thủ vào những gì được nhận biết. Khi không có hiểu biết một cách trọn vẹn về thực tại là cái thấy, sẽ có sự chấp thủ cho cái thấy đó là “tôi” thấy. Suốt cả ngày, suốt cả một kiếp sống, và suốt cả vòng luân hồi. Chính vì vậy, ta không nên nghe những lời của người khác ngoài lời dạy của chính Đức Phật.

            Vị sư 3: Qua lời giải thích của Achaan Sujin, sư hiểu như thế này, những hành động của ngài Pothila là sự diễn tiến tự nhiên theo duyên riêng của vị ấy, cũng giống như bao người ở đây cũng có những duyên khác nhau. Vậy thì sự quyết định dần đến sự giác ngộ, là do ngài đã được học hỏi ở Đức Phật trước đó. Tâm hiểu được các thực tại hiện giờ không phải là ngã, vậy nó không hề tùy thuộc vào việc rời khỏi hội chúng, có đúng vậy không?

            Achaan Sujin: Đúng là như vậy.

            Sarah: Cũng như chúng ta thấy, ở đây chúng ta đều có những tích lũy khác nhau, chẳng hạn có người là cư sỹ, người là tu sỹ xuất gia, người sống ở miền núi, người sống ở miền xuôi. Người thích ăn mặc kiểu này, người thích thích mặc kiểu khác, người thích đồ uống này, người thích đồ uống khác. Như Achaan Sujin đã nhấn mạnh, không có con người hay tình huống mà chỉ có những thực tại khác nhau sinh khởi với những tích lũy khác nhau. Cũng như vậy, trong những đệ tử của Đức Phật, có những người là tỳ kheo, người là cư sỹ, người giàu, người nghèo, có người là tỳ kheo nhưng lại sống trong rừng như đại đức Maha Kassapa (Đại Ca Diếp), có tỳ kheo lại sống ở nơi đông dân cư như đại đức Ananda. Qua việc phát triển hiểu biết, dần dần chúng ta sẽ hiểu rõ hơn tích lũy của mình qua những gì sinh khởi từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác. Chỉ có Đức Phật là người duy nhất có năng lực biết được căn cơ, những tích lũy ngủ ngầm của các chúng sinh và ở khoảnh khắc nào, điều gì là cần thiết cho mỗi người. Chúng ta cũng thấy rằng có rất nhiều tích lũy khác nhau: có người nghe Đức Phật giảng Pháp thì giác ngộ ngay, có những người nghe xong rồi đi vào rừng và giác ngộ, nhưng có những người, ví dụ như tỳ kheo Meghiya trong kinh Meghiya (Kinh Phật Tự Thuyết, số 34 – VDH), người đã xin Đức Phật vào rừng xoài để hành thiền. Đức Phật đã nhiều lần từ chối, nhưng vì vị ấy tiếp tục nài xin, Đức Phật đã đồng ý để vị ấy làm theo ý nguyện. Tỳ kheo Meghiya vào rừng trở nên hoảng sợ, có những phiền não sinh khởi làm cản trở vị ấy. Với chúng ta, nếu ai đó nghĩ rằng tối nay mình nên vào rừng sống một mình để phát triển hiểu biết thì đó là suy nghĩ sai lầm. Có thể chúng ta sẽ giống như ngài Meghiya, sẽ hoảng sợ và phải quay trở lại để tìm sự có mặt của những người khác. Tóm lại, bất kể những tích lũy khác nhau như thế nào thì con đường phát triển hiểu biết thực sự vẫn chỉ là con đường Bát Chánh Đạo mà thôi. Chỉ Bát Chánh Đạo mới có thể làm mẫu số chung cho tất cả những câu chuyện về sự giác ngộ của ngài Xá lợi phất, Mục kiền liên hay ngài Pothila, hay cho mỗi chúng ta ngồi đây.

Con đường ấy không thể tách rời với hiểu biết đúng về khoảnh khắc hiện tại, của tâm và các pháp đồng sinh. Ở khoảnh khắc có hiểu biết đúng, tức là chánh kiến, cũng đồng thời sinh khởi chánh tư duy, chánh niệm, chánh định, chánh tinh tấn, mặc dù chúng ta không cần phải nghĩ đến sự nỗ lực hay cố gắng định tâm. Hiểu biết đúng về thực tại hoàn toàn tách biệt và độc lập với tích lũy riêng của mỗi người, nhưng trí tuệ thì luôn hiểu như nhau.

 

Pháp đàm tại Đà lạt, sáng ngày 13/05/2015

Sarah: Ngày hôm qua chúng ta đã nói vắn tắt về bảy loại ngủ ngầm. Mọi người thường cảm thấy lo lắng về những tham ái hay sân hận mạnh mẽ của mình. Trong các loại ngủ ngầm này, ba loại ngủ ngầm phải được tận diệt trước tiên là tà kiến về ngã, hoài nghi và giới cấm thủ. Như vậy chừng nào ba loại ngủ ngầm này vẫn chưa được tận diệt thì chừng đó vẫn không thể có sự tận diệt của những ngủ ngầm còn lại, trong đó có tham ái. Bậc Thánh Dự Lưu đã tận diệt được ba loại chấp thủ: kiến thủ, ngã thủ và giới cấm thủ và chỉ còn lại dục thủ. Ngài không còn chấp thủ vào ý niệm về ngã, và ngài không có sự thực hành sai lầm, cố gắng có chánh niệm với ý niệm về ngã. Không chỉ bậc Thánh Dự Lưu mà bậc thánh Nhất lai vẫn còn tham và sân, chỉ đến bậc thánh Bất Lai, tức là bậc thánh thứ ba, một mức độ hiểu biết vô cùng cao thì mới có sự tận diệt của tham dục và sân hận. Chỉ đối với bậc A la hán thì tham ái mới được hoàn toàn tận diệt, cùng với nó là vô minh và ngã mạn. Trong cuộc sống của chúng ta, việc có những khoảnh khắc của tham ái sinh khởi là một điều rất tự nhiên, nhưng mối nguy hiểm lớn nhất chính là tà kiến, hay hiểu biết sai lầm.

Sau buổi pháp đàm hôm qua, tôi có đọc lại câu chuyện về ngài Pothila. Trong bản dịch mà tôi đã đọc có nói rằng, ngài Pothila là người rất giỏi pháp học, Đức Phật đã gọi vị ấy là “Pothila rỗng tuếch”. Sau nhiều lần như vậy, ngài bèn rời hội chúng đi thực hành. Như chúng ta đã thảo luận, mỗi người chúng ta khi đọc Kinh điển, nghe Pháp đều có cách diễn giải riêng của mình về những gì được đọc, được nghe. Tuy nhiên, khi chúng ta đọc, dù là bản dịch tiếng Anh hay tiếng Việt, có thể có những thiếu sót trong dịch thuật, nhưng với hiểu biết đúng ta sẽ biết rằng bất cứ những gì ta đọc là đều nói về các pháp chân đế, về thực tại, về phát triển trí tuệ. Như chúng ta đọc trong Kinh điển, Pothila là một người nắm vững kiến thức, và ngài đã là giáo thọ cho các vị tỳ kheo. Tuy nhiên, kể cả khi ta có thể đọc thuộc lòng Kinh điển hay giảng dạy cho những người khác, điều đó không nhất thiết có nghĩa rằng bản thân đã có những hiểu biết đúng đắn về các thực tại, cái mà ta gọi là pariyatipháp học. Như vậy, pháp học không phải như chúng ta vẫn thường nghĩ, là chỉ đơn thuần là kiến thức sách vở, mà đó là sự suy xét rất cẩn thận và thấu đáo từng từ một trong Giáo lý của Đức Phật.

Như chúng ta đã đọc trong bài Kinh Pháp Môn Căn Bản, chúng ta biết rằng mặc dù Đức Phật nói về địa đại, phong đại, hỏa đại, thủy đại, thì cũng có những vị tỳ kheo không nắm bắt được một cách đúng đắn, mà lại cho đó là ngã, là ta. Đó là do bởi có rất nhiều mana – ngã mạn. Mặc dù vậy Đức Phật vẫn dạy cho họ các pháp chân đế, vì Ngài biết rằng nền tảng mà họ tích lũy trong kiếp đó có thể làm duyên cho hiểu biết tiếp tục phát triển trong kiếp kế tiếp. Quay trở lại với chuyện ngài Pothila, như tôi đọc và hiểu thì thấy rằng ngài Pothila đã nhận ra được sự ngã mạn của mình nhờ vị sadi bảy tuổi. Ngài đã được vị sadi này dạy bằng cách đưa ra một ẩn dụ về một tổ dế có sáu lỗ, phải bịt đi năm lỗ để lại một lỗ cho con dế chui ra. Theo tôi hiểu đó là ẩn dụ cho sự thu thúc lục căn. Ở khoảnh khắc của hiểu biết đúng về thực tại thì nơi đó có sự thu thúc lục căn. Ở khoảnh khắc hiểu biết về thực tại sẽ không có cơ hội cho sự dính mắc với những đối tượng được kinh nghiệm qua sau căn. Như vậy mấu chốt không phải là vấn đề cố gắng để không thấy, không nghe, không ngửi, không nếm, không xúc chạm, mà thực chất là khoảnh khắc của chánh niệm sinh khởi, và chính chánh niệm đó sẽ làm nhiệm vụ thu thúc, bảo vệ cho các căn.

Sau khi ngài Pothila nghe lời chỉ dạy kia, và thêm một bài kệ từ Đức Phật, ngài đã phát triển hiểu biết về các thực tại, về tất cả các danh và sắc. Trong bài kinh cũng có nói đến chánh niệm về các thực tại là thân. Có hai loại thân là sắc thân và danh thân. Tất nhiên tôi sẽ phải kiểm tra thêm trong Kinh điển để có chi tiết chính xác, nhưng khi nói đến kinh nghiệm tính cứng là nói đến sắc thân (rupa kaya). Khi nói đến tham thì nói đến danh thân(nama kaya). Không rõ phần dịch thuật sẽ phải như thế nào, nhưng có một điều chắc chắn là, tất cả các pháp chân đế đều cần phải được biết và không có sự chọn lựa loại thực tại nào cần được biết ở thời điểm cụ thể nào.

Trong Kinh Pháp Cú (vần 372), có câu “do thiền định phát sanh trí tuệ”, tiếng Pali là “Yoga ve jayati bhuri”. Từ đầu tiên, yoga, thường được dịch là “tu” hay “thiền” thực chất không giống như những gì chúng ta vẫn mường tượng về thiền hay thực hành. Nghĩa của nó là tinh tấn, nỗ lực, và ở đây nói đến tinh tấn nỗ lực đúng đắn, chân chánh. Từ thứ hai, jayati, có nghĩa là trí, điều đó có nghĩa là tinh tấn phải đi kèm với trí tuệ. Chánh tinh tấn nói đến ở đây không có nghĩa là cố làm một cái gì đó, cố gắng hay biết, hay cố gắng đóng cửa một giác quan nào đó. Ở khoảnh khắc có sự lắng nghe, hiểu và trân quý những gì được nghe về pháp -chẳng hạn như ta đang nói về tính chất của tham, của sân, của tinh tấn hiện giờ- thì đã có tinh tấn chân chánh, nó là một pháp do duyên, không aicó thể làm cho tinh tấn sinh khởi. Nếu ai đó cứ cố nỗ lực thì khi đó sẽ không còn là chánh tinh tấn. Nếu ở khoảnh khắc này có hiểu biết đúng, thì ở đó đã có chánh tinh tấn. Ở khoảnh khắc có tinh tấn cùng với chánh niệm thì đã có sự thu thúc lục căn. Như vậy có nghĩa là ngũ căn đã được đóng lại dù không ai làm gì cả, rất tự nhiên như chính khoảnh khắc này. Như vậy lúc đó, ngài Pothila đã hiểu ra rằng, hiểu biết phải là hiểu biết về những gì sinh khởi ở khoảnh khắc hiện tại chứ không phải là kiến thức sách vở.

            Jonothan: Điều này cho ta thấy, có thể ta biết được kiến thức cả Kinh điển và chú giải nhưng cũng không có nghĩa rằng đã hiểu được điều cốt tủy của Giáo lý. Điều đó một lần nữa minh chứng cho những gì Achaan Sujin thường nói, đó là chỉ có thể phát triển hiểu biết nếu có sự nghiên cứu và hiểu một cách thấu đáo từng từ một, thay cho việc ta chỉ đọc một bài kinh và coi những câu chuyện đã xảy ra đó là cách thức phát triển hiểu biết.

 

Pháp đàm tại Nha Trang, sáng ngày 02/04/2016

Người hỏi: Xin Achaan Sujin giải thích về các duyên để các hiểu biết đúng được sinh khởi một cách tự nhiên.

Acchan:  Đó là nghe Pháp và suy xét chân chánh.

Sarah:  Trong cuộc sống có nhiều cơ hội để nói chuyện về pháp, ví dụ như cái thấy, cái thấy thấy đối tượng thị giác, cái nếm thì nếm vị.  Khi chúng ta có suy xét về những gì là thật ở khoảnh khắc này, về các pháp khác nhau sinh khởi, chính điều ấy tạo duyên cho thêm suy xét về các pháp diễn ra trong cuộc sống.  Chúng ta cho rằng chính “chúng ta” là người quyết định đến đây để nghe Pháp, và quyết định tiếp tục nghe để cố hiểu về cái thấy. Nhưng đó chỉ là ý niệm mang tính chế định của chúng ta mà thôi. Do tích lũy quan tâm đến Giáo pháp, đến ý nghĩa của cuộc sống, nó tạo duyên khiến cho hiện giờ ta đang nghe lời mô tả về bản chất thực của các pháp. Như vậy không phải là một tự ngã nào quyết định đưa bạn đến đây. Khi chúng ta nghe về cái thấy -rằng cái thấy là thực ở khoảnh khắc này, rằng nó sinh khởi để kinh nghiệm đối tượng thị giác – và có sự suy xét về sự thực ấy, đó chính là duyên để hiểu biết có thể được phát triển dần dần. 

Jonothan: Câu hỏi “làm sao để hiểu biết được phát triển một cách tự nhiên?” có thể quy về câu hỏi ngắn gọn “nguyên do để hiểu biết được phát triển là gì?”.  Bởi vì trên thực tế, không có hiểu biết hay trí tuệ nào không sinh khởi một cách tự nhiên cả. Điểm tôi muốn nhấn mạnh ở đây là hiểu biết cần phải được phát triển một cách tự nhiên.  Như vậy, duyên cho hiểu biết là việc được nghe về Giáo lý với suy xét chân chánh.  Hiểu biết ở lúc đầu bao giờ cũng là hiểu biết ở mức độ tư duy.  Nghe Giáo lý và hiểu những gì được nghe thì vẫn chưa đủ, sau đó vẫn cần tiếp tục nghe và hiểu hơn về các thực tại khác nhau.  Đây là yếu tố căn bản trong sự phát triển hiểu biết ở mức độ tư duy. Vì thế, chúng ta cần nói về những thực tại hiện giờ, như cái thấy, nghe và những suy nghĩ sau cái thấy, nghe. Chính mối quan tâm về Giáo lý từ trước tạo duyên cho sự suy tư về những gì được nghe với một chút hiểu biết. Sự suy xét này diễn ra một cách hoàn toàn tự nhiên, không phải là một cái gì đó mà ta cố làm. Cần nghe và suy xét rất nhiều để có thể trân quý Giáo Pháp một cách thực sự.

Như Achaan Sujin đã nói, Giáo Pháp vô cùng vi diệu và thâm sâu. Nếu nó không thật sự thâm sâu thì chúng ta có thể nghe và hiểu ngay sau một buổi.  Sự thật mà Đức Phật giác ngộ hoàn toàn khác với thế giới mà chúng ta quen, và nó cũng đi ngược lại với tà kiến mà chúng ta đã tích lũy rất sâu dày, chính tà kiến này là bước cản không cho chúng ta cơ hội được nghe, hay nghe mà không hiểu, những gì Đức Phật dạy. Không chỉ hiểu biết được tích lũy từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác như chúng ta đã nói, mà tà kiến và vô minh cũng vậy. Cái có thể phá vỡ vòng lẩn quẩn của vô minh và tà kiến chính là việc được nghe Giáo Pháp trong kiếp sống này. 

Sarah:  Chúng ta không thể nói rằng hiểu biết “tự nhiên” trái ngược với hiểu biết “không tự nhiên”, mà phải nói rằng hiểu biết không tự nhiên chính là tà kiến. Nếu có ý niệm cho rằng ta sẽ phải làm gì đó để bớt có suy nghĩ, hay ta cần đến một nơi nào đó để giảm dính mắc hay không còn sân, đó là những hiểu biết sai. Những ý niệm ấy được thúc đẩy bởi tà kiến cho rằng có một tự ngã có thể làm một cái gì đó khiến mọi việc diễn ra theo mong muốn của mình trong cuộc sống này. Ý niệm cho rằng mình cần đến một nơi nào đó yên tĩnh, hay thực hiện theo các bước a, b, c, d để có thể suy giảm suy nghĩ không phải là hiểu biết tự nhiên, vì ý niệm đó không cho chúng ta thấy rằng mỗi khoảnh khắc của kiếp sống này sinh khởi hoàn toàn tự nhiên. Mỗi khoảnh khắc của kiếp sống này như thấy, nghe, buồn, vui …đều sinh khởi do duyên riêng của chúng.  Vậy hiểu biết tự nhiên là hiểu biết về pháp trong khoảnh khắc hiện giờ đã sinh khởi, và không cố gắng để thay đổi bất cứ điều gì đã diễn ra rồi.  Hiểu biết ấy được phát triển nhờ việc nghe về các pháp chân đế, về hai loại thực tại: danh là thực tại nhận biết, kinh nghiệm và sắc, là thực tại không nhận biết, kinh nghiệm gì cả, dần dần hiểu được chúng khi chúng sinh khởi trong cuộc sống hằng ngày để chúng ta thấy rằng thật sự cuộc sống này là vô ngã.

Achaan Sujin:  Đức Bồ tát đã cần bao nhiêu thời gian để đạt được Chánh đẳng giác? Ý nghĩa của từ “giác ngộ” là hiểu trực tiếp cái thấy cũng như các pháp khác như đúng bản chất của chúng. Mỗi khoảnh khắc đã sinh khởi do duyên một cách hoàn toàn tự nhiên, không phải bởi con người hay tự ngã nào cả.  Rất nhiều lần chúng ta nghe rằng cái thấy không phải là một tự ngã, không có một tự ngã nào tạo ra cái thấy, và đó là lời dạy của Đức Phật. Có ai thấy đúng sự thật hiện giờ như Đức Phật dạy hay không? Chính vì vậy chúng ta nên nghe đi nghe lại để không quên. Cái thấy hiện giờ đang thấy nhưng ai biết được là nó do duyên tạo nên để hiện giờ đang thấy? Ngay sau khi sinh khởi, nó diệt đi một cách hoàn toàn, ở khoảnh khắc đó không có con người nào cả.  Mỗi khoảnh khắc được nghe về sự thật đó với suy xét chân chánh sẽ khiến cho hiểu biết phát triển dần lên.

Hiện giờ không những có cái thấy, mà còn có suy nghĩ về cái được thấy, nhờ đó mới có ý niệm về con người và cảnh vật. Vậy làm thế nào để hiểu rõ rằng con người và cảnh vật sinh khởi sau cái thấy chỉ là ý niệm đây?  Hiểu biết ấy phải dần được phát triển dựa vào sự khác biệt giữa khoảnh khắc của cái thấy và khoảnh khắc suy nghĩ về cái được thấy. Thực tại sinh và diệt rất nhanh, rất khó hiểu được pháp và các thực tại như đúng bản chất của chúng.  Cái thấy chỉ thấy cái được thấy chứ không thấy cái mà chúng ta suy nghĩ về, là con người và cảnh vật.  Ở khoảnh khắc của cái thấy, chỉ có cái thấy và cái được thấy mà thôi, khi đó không có con người, đồ vật, không có căn phòng, không có gì xuất hiện cả. Khoảnh khắc của cái thấy khác với khoảnh khắc của suy nghĩ, nhưng suy nghĩ thì nối tiếp cái thấy vô cùng nhanh.

Nếu không được nghe Giáo lý, làm sao chúng ta có thể biết rằng ngay sau khi có cái thấy đã có sự dính mắc tiếp nối rồi, kể cả khi chưa có ý niệm về con người và đồ vật? Chỉ là cái được thấy mà thôi mà đã có sự dính mắc với thực tại đó rồi. Nghe như vậy để chúng ta biết được ai là Đức Phật, và Ngài đã giảng những gì.  Nếu chúng ta nhắm mắt thì sẽ không thấy con người và đồ vật, nhưng ngay khi mở mắt thì đã thấy con người và đồ vật rồi. Sự thật là sự thật. Không ai có thể thấy các thứ khác nhau khi mình nhắm mắt, vậy những thứ ấy ở đâu khi ấy? Nhưng chúng lại xuất hiện khi mở mắt. Điều đó chứng tỏ là bản thân cái thấy không thấy ai cả. Vậy khi ta nhắm mắt thì cái gì được thấy đây? Có thể thấy các loại ánh sáng khác nhau như đỏ hay xanh, tùy thuộc vào nơi bạn đang ở, nhưng không có con người nào ở đó.  Đó là cách mà chúng ta biết rằng không có con người hay thế giới, mà chỉ có các thực tại khác nhau sinh khởi và diệt đi tiếp nối. Không có con đường nào khác ngoài sự phát triển hiểu biết dù rằng sự phát triển hiểu biết ấy rất khó khăn.

Đừng cố để thấy được rằng cái thấy không thấy con người và đồ vật. Khi nghe thì mới là hiểu biết ở mức độ tư duy về sự thật, giác ngộ chỉ có thể đến khi hiểu biết đó được phát triển dần mạnh để thấy rằng mỗi lời dạy của Đức Phật đều là chân lý. Bản chất của các pháp chỉ có thể được kinh nghiệm bởi trí tuệ đã phát triển, chứ vô minh không thể kinh nghiệm được pháp chân đế. Các con đường khác ngoài con đường nghe Pháp là con đường sai. Chúng ta không cần phải đi đâu cả, chúng ta không cần phải làm hay ngồi một cách đặc biệt bởi vì ngay bây giờ đây đang có các thực tại. Có thể hiểu được lời dạy của Đức Phật bằng việc nghe về các thực tại hiện giờ, không nên có sự mong đợi bất cứ kết quả nào.  Bởi mong cầu có trí tuệ là dính mắc, dù ở một dạng khác. Chúng ta cần suy xét xem đức Bồ tát cần bao nhiêu thời gian để trở thành Đức Phật toàn giác. Không ai có thể thúc đẩy trí tuệ phát triển nhanh hơn, mà ngược lại ta nên chân thật với sự thực. Chúng ta cần phát triển chân thật ba la mật và quyết định ba la mật để hiểu biết đúng có thể hiểu về bản chất của các pháp ở bất cứ khoảnh khắc nào. Bây giờ thì chưa hiểu được ngay, nhưng dần dần rồi sẽ có sự hiểu biết. Tuy nhiên đừng mong đợi. 

 

Pháp đàm tại Nha Trang, sáng ngày 20/05/15

Người hỏi: Kinh điển nói rằng cần có văn, tư, tu. Cần đọc tụng, nghe giảng tư duy và hạ thủ công phu. Vậy nếu chỉ nghe không, nghe mãi thì có thể làm phát sinh chánh niệm được không?

Achaan Sujin: Chánh niệm là gì?

Người hỏi: Thấy được giây phút hiện tại đang là, xảy ra với nhãn căn.

Achaan Sujin: Để biết, để hiểu hay để làm gì?

Người hỏi: Thấy đối tượng được thấy thôi

Achaan Sujin: Hiện giờ đang có cái thấy, sau khoảnh khắc của cái thấy đã có chánh niệm về cái thấy chưa?

Người hỏi: Sau khoảnh khắc của cái thấy thì lại tiếp tục có cái thấy

Achaan Sujin: Đâu là đặc tính của chánh niệm hay biết thực tại và chánh niệm hay biết khái niệm?

Người hỏi: Chánh niệm là trạng thái tâm không vọng tưởng.

Achaan Sujin: Sự khác biệt giữa chánh niệm và tâm là gì?

Người hỏi: Chánh niệm là vô niệm, không khởi lên bất cứ ý niệm nào, nó chỉ thấy đối tượng mà thôi.

Achaan Sujin Chánh niệm có thể thấy đối tượng được không?

Người hỏi: Chánh niệm không thể thấy được đối tượng.

Achaan Sujin: Liệu có thể có chánh niệm nếu không hiểu đúng cái thấy là gì, hay đối tượng thị giác là gì hay không?

Người hỏi: Theo lời giảng của Bà từ hôm nọ đến giờ, tôi có thể hiểu rằng việc thấy đối tượng mà không khởi chút ý niệm nào thì đó là cái thấy có chánh niệm.

Achaan Sujin: Không phải là như vậy đâu, nếu thế thì coi như tất cả mọi người đều đang có chánh niệm. Câu hỏi của tôi là, liệu có thể có chánh niệm sinh khởi mà không có hiểu biết đúng không?

Người hỏi: Không có hiểu biết đúng thì không thể có chánh niệm sinh khởi

Achaan Sujin: Vậy chánh niệm có thể sinh khởi do ý chí không?

Người hỏi: Chánh niệm không thể sinh khởi do ý chí

Achaan Sujin: Vậy đâu là duyên cho chánh niệm sinh khởi?

Người hỏi: Duyên cho chánh niệm sinh khởi là thiện pháp, khi thường xuyên khởi lên thiện pháp thì sẽ có chánh niệm sinh khởi.

Achaan Sujin: Có thể có những khoảnh khắc thiện pháp mà không có chút trí tuệ nào.

Người hỏi: Không có thiện pháp nào mà không có trí tuệ cả.

Sarah: Sáng nay chúng ta đã nói về những loại thiện pháp khác nhau, như nói đến ví dụ về bố thí. Chúng ta nói rằng trong quá trình bố thí như vậy, có khoảnh khắc là thiện xen kẽ với những khoảnh khắc là bất thiện. Ở khoảnh khắc tâm là thiện thì có chánh niệm sinh khởi cùng, và chánh niệm khi đó nhớ cái gì là thiện. Ở khoảnh khắc đó, không nhất thiết có trí sinh khởi cùng, không có trí phân biệt tính chất của thiện tâm hay trí nhận biết về thực tại như nó là… Chúng ta cũng đã nói đến tâm từ, và nói rằng tâm từ có thể sinh khởi bất cứ lúc nào, như lúc này có thể đang có sự quan tâm và mong muốn điều tốt đẹp cho người khác. Ở khoảnh khắc của từ tâm có chánh niệm, và chánh niệm khi ấy nhớ thiện pháp cần phải sinh khởi. Khi đó cũng không nhất thiết có trí tuệ sinh khởi cùng. Trí tuệ có thể hiểu tính chất của tâm khi ấy là thiện hoặc bất thiện, hoặc hiểu pháp chỉ là pháp mà thôi.

Khi nói về sự phát triển tâm trí, ở đó phải có tâm thiện hợp với trí. Vừa rồi bạn có đề cập đến văn tuệ (sutta maya paññā), tư tuệ (cinta maya paññā) và tu tuệ (bhāvanā maya paññā). Giờ trước hết ta sẽ nói về văn tuệ. Hiện giờ ta được nghe Achaan Sujin nói về các thực tại khác nhau, như cái thấy và đối tượng thị giác. Trong quá trình quý vị lắng nghe, nếu có cái hiểu về những điều được thuyết giảng, dù chỉ ở mức độ tư duy, khi đó có văn tuệ. Ở khoảnh khắc hiểu điều được lời thuyết giảng, dù ít ỏi, khi đó có trí tuệ sinh khởi cùng với chánh niệm, cũng rất ít ỏi. Như bạn có nói, hiểu được một chút hiện giờ vẫn không đủ để làm suy giảm vô minh và phát triển hiểu biết. Vẫn cần tiếp tục chiêm nghiệm về những điều được nghe, bất kể khi ở nhà, đi chùa, ở bãi biển hay đang làm việc, trong bất cứ tình huống nào, nếu có đủ duyên sinh khởi sự chiêm nghiệm về đặc tính của một pháp đang xuất hiện, hiểu nó một cách đúng đắn, thì ở khoảnh khắc đó có tư tuệ. Như Achaan Sujin đã nói, sự suy xét và chiêm nghiệm ấy phải được tăng trưởng, vun bồi để có được hiểu biết thông suốt và niềm tin dũng mãnh rằng duy nhất chỉ có khoảnh khắc hiện tại có thể được hiểu, không phụ thuộc vào thời gian, nơi chốn, không còn nghĩ đến thời điểm khác, nơi nào khác hay vào ai đó làm công việc hiểu biết. Hiểu biết đó phải sâu sắc, vững vàng đến mức biết rằng không có con đường phát triển trí tuệ nào khác ngoài chính hiểu biết sinh khởi với đối tượng đang hiện khởi. Khi đó sẽ không còn ý nghĩ bây giờ mình cần phải ra chùa hay ở nơi yên tĩnh hơn, gặp thêm một vài vị cao tăng nữa… mà luôn hiểu chắc chắn rằng chỉ có pháp hiện giờ là cái có thể được hiểu, và nó sinh khởi do duyên. Với hiểu biết thông suốt và vững vàng như vậy, nó có thể làm duyên cho mức độ thứ ba mà ta gọi là tu tuệ – đó thực chất chính là khoảnh khắc đối tượng được kinh nghiệm trực tiếp, các pháp chân đế được liễu ngộ trực tiếp bởi chánh niệm và trí tuệ. Vậy sự khởi đầu là việc được nghe về các pháp khác nhau, như tâm là gì, cái thấy là gì, cái nghe là gì, âm thanh là gì, thích là gì, không thích là gì… Tất cả các pháp đó đều là vô ngã và là đối tượng cho trí tuệ phát triển.

Jonothan: Ban nãy bạn có nói chánh niệm là thấy đối tượng thị giác mà không có chút ý niệm gì về nó. Tôi nghĩ rằng cũng có nhiều người cùng chung suy nghĩ như vậy, rằng ở khoảnh khắc có chánh niệm về đối tượng thị giác thì không có suy nghĩ về đối tượng thị giác ấy. Ta có thể đã liên tưởng đến bài kinh Bāhiya mà chúng ta đã đề cập đến, rằng Đức Phật đã dạy “trong cái thấy chỉ có cái thấy”. Tuy nhiên, ý nghĩa thực sự của bài kinh ấy khác với điều mà chúng ta dễ dàng lầm tưởng. Vì chức năng của chánh niệm là hay biết đối tượng cụ thể. Đôi khi người ta dùng từ “không quên đối tượng” để mô tả về chánh niệm. Đó là ý nghĩa của chánh niệm. Như vậy ở khoảnh khắc chánh niệm đang hay biết đối tượng thị giác chẳng hạn, khi ấy nó không hay biết suy nghĩ. Tuy nhiên, suy nghĩ về những gì đã được thấy, được nghe v.v… là một tiến trình tự nhiên xảy ra suốt cả ngày. Việc có chánh niệm sinh khởi hay biết đối tượng không làm ngăn những tiến trình ấy diễn ra như thường lệ. Nói cách khác, chánh niệm có đối tượng của nó, việc chánh niệm hay biết đối tượng không làm thay đổi tiến trình tâm diễn ra theo quy luật tự nhiên. Nếu nói đến chánh niệm của Tứ niệm xứ sinh khởi cùng trí tuệ hay biết đối tượng chân đế, trí tuệ hiểu đặc tính của thực tại đó và tiến trình tâm vẫn diễn ra một cách bình thường. Việc trí tuệ cùng chánh niệm hay biết đối tượng không làm thay đổi chút nào diễn tiến của tự nhiên. Với cách ấy, nó sẽ hiểu biết đúng hơn về bản chất của các pháp. Như vậy có chánh niệm không nhất thiết sẽ bớt suy nghĩ hay bớt bất thiện pháp hơn. Ở khoảnh khắc có chánh niệm, một pháp sẽ không bị trộn lẫn hay lầm tưởng với pháp khác. Ở khoảnh khắc có chánh niệm, đối tượng thị giác không bị lầm tưởng là nhãn thức hay ngược lại… Vậy không cần phải thay đổi bất cứ điều gì trong cuộc sống của chúng ta để có thể phát triển chánh niệm cùng hiểu biết.

Achaan Sujin: Trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, cái gì sinh khởi nhiều hơn, thiện hay bất thiện? Giữa khoảnh khắc thiện pháp hợp với trí và không hợp với trí, cái gì thường xuyên hơn?

Người hỏi: Thiện pháp hợp với trí nhiều hơn thiện pháp không hợp với trí

Achaan Sujin: Tại sao?

Người hỏi: Vì vô minh che lấp thiện pháp.

Achaan Sujin: Làm thế nào để bớt dần vô minh che lấp?

Người hỏi: Cần có những thiện pháp liên tục, không ngừng nghỉ, rồi mới đẩy lùi được vô minh

Achaan Sujin: Bạn nói liên tục nghĩa là gì?

Người hỏi: Khi có đối tượng của cái thấy mà cái thấy thấy được thực tướng của các pháp như nó đang là, điều này xảy ra thường xuyên liên tục thì sẽ đẩy lùi được vô minh. Điều này kéo dài được bao nhiêu thì tốt bấy nhiêu.

Sarah: Như chúng ta đã bàn luận, và bạn cũng đã đồng ý rằng, khoảnh khắc của thấy và nghe là khoảnh khắc của tâm quả, và khoảnh khắc của tâm quả thì không có trí tuệ sinh khởi cùng. Ta biết rằng, sau khi cái thấy sinh rồi diệt đi, thông thường là bất thiện pháp tiếp nối nhiều hơn là thiện pháp. Dù ở bất cứ nơi đâu, ở bãi biển hoặc ở đây, bất thiện pháp vẫn xảy ra rất nhiều hơn thiện pháp. Chúng ta cũng đã nhất trí rằng, những khoảnh khắc thiện tâm không hợp trí (như bố thí, từ tâm…) thì nhiều hơn những khoảnh khắc thiện tâm hợp trí (tức là khoảnh khắc với hiểu biết đúng). Điều ấy cho thấy thiện tâm hợp với trí là vô cùng hiếm hoi và không hề dễ sinh khởi. Không ai có thể có trí tuệ liên tục, kể cả vị A la hán, vì vị ấy vẫn có những khoảnh khắc của thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm là những khoảnh khắc của tâm quả. Mặc dù các vị ấy không còn tâm bất thiện cũng như tâm thiện, các khoảnh khắc từ tâm, quảng đại vẫn nhiều hơn rất nhiều so với các khoảnh khắc của tâm duy tác tịnh hảo hợp trí. Vậy hãy quên việc cố gắng liên tục có các khoảnh khắc thiện tâm hợp trí. Tốt nhất nên chân thật với bản thân rằng, rất hiếm hoi có được chánh niệm, thiện tâm cũng như thiện tâm hợp với trí. 

Achaan Sujin: Vì lẽ đó, nếu không có sự tìm hiểu Giáo lý thì không có cách nào biết được sự thật về những gì đang xuất hiện hiện giờ. Ở khoảnh khắc hiện giờ, đang có cái thấy và đối tượng thị giác là đối tượng của nhãn thức. Nhãn thức sinh khởi để kinh nghiệm đối tượng thị giác rồi diệt đi. Nhưng khi nhãn thức diệt đi rồi, đối tượng thị giác vẫn chưa diệt vì tuổi thọ của sắc kéo dài gấp 17 lần so với tuổi thọ của tâm. Sau khi nhãn thức diệt đi, có tiếp ba tâm khác nhau sinh và diệt trước khi bảy tốc hành tâm sinh khởi – chúng có thể là thiện hay bất thiện, tâm tham hay tâm si – kinh nghiệm cùng sắc đó trước khi nó diệt đi hoàn toàn. Có bao nhiêu vô minh và dính mắc trong tiến trình nhãn môn đó? Tương tự như vậy với tiến trình qua các căn khác – nghe, ngửi, nếm, xúc chạm- trước khi có thể có đủ tích luỹ để làm duyên cho thiện pháp sinh khởi thay cho dính mắc và vô minh, chứ chưa nói tới trí tuệ. Nếu không có hiểu biết đúng về các pháp chân đế làm nền tảng thì không thể có những khoảnh khắc như vậy.

Hãy suy xét về sự phát triển hiểu biết của phàm phu và khoảnh khắc của đạo quả Dự lưu. Đạo quả rất xa với hiện giờ. Vì hiện giờ, khi nghe về các thực tại, ta vẫn chưa thấy được sự sâu sắc và vi tế của các pháp mà Đức Phật nói đến. Không nên chỉ mong cầu và suy đoán, hãy thử xem hiện giờ thì sao? Những khoảnh khắc hiểu thêm về thực tại rất hiếm hoi trong ngày. Hãy lắng nghe Giáo lý một cách cẩn thận và suy xét từng chút một, cứ như vậy, cho đến khi trí tuệ dần được phát triển nhiều hơn, cho đến khi hiểu biết ấy có thể đủ mạnh để làm duyên cho chánh niệm thay cho vô minh và dính mắc. Đây mới chỉ là sự khởi đầu của những duyên được tích lũy cho cái mà ta gọi là “tu tuệ”.

 

 

 

Leave a Reply

Translate »