Vị sư 2: Hồi sáng, sư có nghe samatha là sự phát triển sở hữu an tịnh, vậy sở hữu an tịnh là gì? Vì trước đây sư vẫn nghĩ là samatha là phát triển sở hữu nhất hành- ekagata cetasika.
Ghi chú: Tâm sở an tịnh là passaddhi cetasika gồm kāya-passaddhi (trạng thái an tịnh của tâm sở) và Citta-passaddhi (trạng thái an tịnh của tâm vương). (có một số tài liệu dịch Việt từ passaddhi với nghĩa khinh an)
Achaan: Mỗi từ cần phải được nghiên cứu một cách rất kỹ lưỡng, ví dụ từ samatha, trước khi nghe Giáo lý, chúng tôi không biết rõ nghĩa của từ samatha trong tiếng Thái. Người Tháì sử dụng rất nhiều thuật ngữ Pali nhưng không có sự nghiên cứu về các thuật ngữ ấy. Đối với người Thái, từ samatha có nghĩa là một người không quan tâm tới tiện nghi, xa xỉ. Vậy là bất cứ ai cũng có thể hiểu nhầm nếu họ không thực sự hiểu nghĩa của các thuật ngữ. Nhưng khi chúng ta nghiên cứu Pháp, chúng ta hiểu rằng không có một ai cả mà chỉ có các thực tại sinh khởi mỗi ngày.
Vậy samatha là gì? Nó phải là sự an tịnh, nhưng là một tâm sở chứ không phải là tâm, bởi vì tâm chỉ là thực tại có chức năng kinh nghiệm đối tượng mà thôi. Và sự an tịnh không có nghĩa là ngồi một mình. Bởi vì bất cứ ai cũng có thể ngồi một mình với tâm bất thiện. An tịnh là khoảnh khắc của thiện tâm, khi vắng mặt tham, sân, si. Nếu không đúng như vậy thì ở khoảnh khắc đó tâm không phải là an tịnh. Một số người có thể thích sống một mình. Nhưng như vậy không có nghĩa rằng, khi họ ở một mình thì tâm họ an tịnh. Họ có thể sống một mình, nhưng suy nghĩ về rất nhiều thứ khác nhau: suy nghĩ với sự dính mắc, sân hận hay các bất thiện khác. Như vậy, sống một mình với ít tiện nghi xa xỉ chưa có nghĩa rằng đã có sự an tịnh. Samatha chỉ có nghĩa là khoảnh khắc của sự tĩnh lặng nội tại gắn liền với thiện pháp (mà ta gọi là an tịnh) mà thôi. Trong một ngày, dễ có duyên cho tâm bất thiện (akusala) sinh khởi. Sau khoảnh khắc của cái thấy, cái nghe, ngửi, nếm xúc chạm, có suy nghĩ sinh khởi. Như vậy tâm thiện không thể sinh khởi một cách dễ dàng. Cần phải có mười chín tâm sở tịnh hảo để làm duyên cho khoảnh khắc của thiện pháp. Ở khoảnh khắc của bất thiện, mười chín tâm sở tịnh hảo này không có mặt. Vậy làm sao ta có thể biết rằng ở một khoảnh khắc cụ thể nào đó có sự an tịnh hay không? Nhất thiết nó phải là một khoảnh khắc của thiện pháp. Các thiện pháp chỉ nằm trong ba nhóm: bố thí, trì giới và bhavana –phát triển tâm trí. Theo Tam tạng, chúng ta có thể nói rằng, mỗi một khoảnh khắc của tâm thiện thì có là sự an tịnh, hay samatha.
Những người không nghiên cứu Giáo lý một cách kỹ lưỡng tưởng sự nhất tâm (định) là sự an tịnh. Sở dĩ như vậy là bởi họ chưa hiểu đặc tính của thực tại nhất tâm. Định là một tâm sở, đó là tâm sở nhất tâm (ekaggata). Nhất tâm là một tâm sở sinh khởi cùng với mỗi tâm. Nó giúp cho tâm chỉ kinh nghiệm một đối tượng ở một thời điểm mà thôi. Tâm sở nhất tâm mà chúng ta vẫn gọi là định sinh khởi với mọi tâm. Nhờ có tâm sở nhất tâm làm duyên cho tâm chỉ kinh nghiệm một đối tượng ở một thời điểm nên, chẳng hạn, ở khoảnh khắc của cái thấy thì nhãn thức không thể kinh nghiệm một đối tượng nào khác ngoài đối tượng là cái được thấy. Trong một khoảnh khắc có rất nhiều âm thanh nhưng chỉ một âm thanh trong đó mới là đối tượng của nhĩ thức mà thôi. Ví dụ, ngay bây giờ mọi người có thể nghe những âm thanh khác nhau. Từng âm thanh một là đối tượng của tâm nhờ có tâm sở nhất tâm làm nhiệm vụ của nó. Bởi lẽ nhất tâm là tâm sở biến hành, nó sinh khởi với tất cả các tâm, cho nên khi sinh khởi với tâm bất thiện thì nhất tâm đó là bất thiện, khi sinh khởi với tâm thiện thì nó là thiện.
Nhất tâm là một trong bảy biến hành tâm sở bởi vì nó cần phải sinh khởi với tất cả các tâm. Ở khoảnh khắc này khi tâm sinh khởi thì đã có tâm sở nhất tâm. Hiện giờ tâm kinh nghiệm các đối tượng khác nhau, một cái ở một thời điểm, đối tượng này sau đối tượng khác. Chính vì vậy đặc tính của tâm sở nhất tâm chưa xuất hiện với tính chất của định, cho đến khi có sự tập trung vào một đối tượng cụ thể. Và khi ấy thì đặc tính của nhất tâm có thể xuất hiện. Nhưng mỗi người đều có thể tập trung vào một cái gì đó vào lúc nào đó, như là tập trung vào hay ngắm vào một đối tượng trong một khoảng thời gian nhất định. Ví dụ như là viết chẳng hạn: chúng ta có thể viết với sự chú tâm, và khi ấy đặc tính của định xuất hiện. Mặc dù nhất tâm sinh khởi với mỗi tâm nhưng đặc tính của nó lại không xuất hiện (trừ khi có sự tập trung vào một đối tượng trong một khoảng thời gian nhất định – ND). Như vậy, ta thấy rằng, nhất tâm có thể là thiện, bất thiện hoặc là quả.
Nếu không có hiểu biết đúng về sự an tịnh, cái mà ta tưởng là khoảnh khắc của sự phát triển samatha sẽ dễ là bất thiện, và khi đó nó sẽ trở thành tà định, tức là không có sự an tịnh thực sự ở đó. Mọi người tưởng mình đang vun bồi samatha khi ngồi một mình và cố tập trung vào một đối tượng nào đó. Nhưng thực chất đó không phải là phát triển samatha. Bởi vì dù trong sự phát triển samatha hay vipassanā, yếu tố luôn cần thiết là hiểu biết đúng. Một người không có hiểu biết rõ ràng sẽ không thể phát triển dù samatha hay vipassanā. Khi ấy cái được phát triển là Tà định, và như vậy sẽ có Bát Tà đạo.
Mỗi lời trong giáo lý của Đức Phật đều tạo duyên cho hiểu biết, mỗi lúc một sâu sắc hơn. Bởi vì những lời ấy biểu đạt những gì đang xuất hiện hiện giờ. Chính vì vậy, nếu một người không hề nghiên cứu giáo lý mà nghĩ rằng mình có thể có trí tuệ thì đó là một hiểu lầm. Đức Phật là ai và chúng ta là ai đây? Nếu chỉ đọc thôi, không nghiên cứu kỹ lưỡng mà lại cho rằng chúng ta có thể hiểu được những gì Đức Phật dạy là một sai lầm. Bởi vì mỗi một từ trong Giáo lý đều là về bây giờ và mọi lúc. Đó là những thực tại sẵn sàng cho hiểu biết sinh khởi để hiểu chúng một cách đúng đắn, hoặc ngược lại cho những hiểu biết sai lầm sinh khởi khi không có hiểu biết đúng. Chẳng hạn, sáng nay chúng ta nói về cái cứng, khi có duyên chín muồi để cho cái cứng được kinh nghiệm thì khi đó sẽ có kinh nghiệm về cái cứng. Kinh nghiệm ấy không giới hạn ở riêng cõi người hay một số cõi chư thiên, nó xảy ra ở nhiều cõi khác, kể cả địa ngục và bàng sinh. Đây chính là sự thực tuyệt đối không bao giờ thay đổi. Chính vì vậy, tại khoảnh khắc kinh nghiệm cái cứng, không phải ai cũng có cái hiểu đúng. Bất cứ chúng sinh nào cũng có thể kinh nghiệm cái cứng: chó, cá, mèo, v.v…, nhưng chúng không thể có hiểu biết về cái cứng, điều ấy là không thể đối với chúng, bởi vì chúng sinh ra với thức tái tục không đi kèm tâm sở trí tuệ. Chúng có thể nghe âm thanh. Nhưng chúng không có hiểu được ý nghĩa của âm thanh ấy. Nhưng con người lại có thể hiểu ý nghĩa của âm thanh. Chính vì vậy, khi ta sinh ra trong cõi súc sinh, sẽ không có cơ hội để phát triển hiểu biết đúng.
Vì các thực tại vi tế đến như vậy, nếu như không có sự nghiên cứu một cách kỹ lưỡng thì chúng dễ hiểu nhầm lời Đức Phật. Chẳng hạn, nếu không có sự an tịnh thực sự, nếu đó không phải là khoảnh khắc của thiện pháp, thì đó không phải là sự phát triển samatha. Đâu là sự khác biệt giữa sự phát triển samatha và sự phát triển vipassana? Trước khi Đức Phật giác ngộ đã có nhiều người có đủ Trí tuệ để hiểu được sự khác biệt giữa khoảnh khắc của thiện và bất thiện. Họ hiểu được mối hiểm họa của việc kinh nghiệm đối tượng của ngũ quan với tâm bất thiện. Họ hiểu được những đối tượng mà nếu hướng tâm về thì có thể tạo duyên cho sự an tịnh. Với hiểu biết ấy thì họ có thể phát triển sự an tịnh đến mức độ của các tầng thiền, nhưng không có hiểu biết rằng những thực tại đó không phải là ngã, không phải là ta. Nhưng sau khi Đức Phật giác ngộ, bất cứ ai có được tích lũy để hiểu được những lời Ngài dạy, dù người ấy đã từng phát triển samatha trước đấy hay không, họ đều thấy được lợi ích của việc phát triển hiểu biết đúng ở bất cứ khoảnh khắc nào.
Chính vì vậy sau khi Đức Phật giác ngộ, Ngài đã dạy suốt 45 năm, cho đến cả giây phút cuối. Bởi vì mọi người đều có những phiền não chưa hề được tận diệt. Nhưng sau khi nghe pháp, Trí tuệ bắt đầu được phát triển một cách từ từ. Kể cả ở thời của Đức Phật, không phải tất cả mọi người đều có thể giác ngộ. Cần phải có thời gian để trở nên trung thực ngay với việc hiện giờ hiểu biết của mình ở mức độ nào. Chẳng hạn bây giờ cái thấy đang là thực, suy nghĩ đang là thực, mọi thực tại trong cuộc đời của chúng ta đều là thực và chúng không phải là tự ngã. Tất cả các pháp đều sinh khởi do duyên. Nếu như không có duyên thì không có gì có thể sinh khởi. Việc tận diệt được ý niệm và sự dính mắc về ngã là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn. Bởi vì cần có một sự tích lũy về hiểu biết trong một khoảng thời gian rất dài, nhiều a tăng kỳ kiếp. Làm sao ta có thể tận diệt được ý niệm về ngã đó chỉ bằng việc ngồi và suy nghĩ mà không có hiểu biết đúng đắn về những gì đang xuất hiện trong hiện tại? Kiếp sống này sẽ là kiếp sống để có thể có sự tích lũy về thiện pháp và hiểu biết để cho kiếp sau và các kiếp sau nữa, cho đến lúc Trí tuệ viên mãn và chín muồi để có thể xuyên thấu được bản chất của thực tại đang xuất hiện.
Vị sư 2: Sadhu, sư xin cảm ơn.
Sarah: Trong vài ngày qua có những người có kể về kinh nghiệm về samatha ở thời trước đây hoặc khi còn nhỏ, nhưng như chúng ta vừa nghe Achaan giải thích về samatha, nếu không có hiểu biết về sự khác biệt của khoảnh khắc của thiện và bất thiện, không hiểu về đối tượng có thể làm duyên cho sự an tịnh sinh khởi như thế nào thì việc nói về samatha hoàn toàn vô nghĩa.
Học viên 2: Trong mấy ngày qua, khi nghe Giáo pháp con rất hoan hỉ. Có một vấn đề mà con rất quan tâm, xin achan cho một bài pháp về chủ đề Nghiệp. Và con có một câu hỏi nhỏ muốn làm rõ chủ đề sáng nay về Tâm và tâm sở. Nếu tâm chỉ hay biết và kinh nghiệm đối tượng thôi, còn lại là các hoạt động của Tâm sở, vậy thì tại sao lại nói Tâm thiện và tâm bất thiện? Nếu Tâm chỉ hay biết thôi thì nó đâu có thiện và bất thiện?
Achaan: Hiện giờ có cái gì đang ở đây?
HV 2: Dhamma –pháp.
Achaan: Bạn gọi đó là pháp, nhưng có rất nhiều pháp khác nhau. Mỗi pháp có một đặc tính riêng, nhưng ở mỗi khoảnh khắc chỉ có một pháp xuất hiện, vậy pháp đang xuất hiện đó là gì nào?
HV 2: Có thể là cái nghe.
Achaan: Còn gì nữa?
HV 2: Cái thấy, cái nếm, cái ngửi, chẳng hạn ngửi mùi cafe.
Achaan: Bạn có thích càfe không?
HV 2: Con thích.
Achaan: Cái ngửi thì khác cái thích đúng không, chúng là hai chứ không phải là một. Vậy ta bắt đầu hiểu cái được gọi là tâm sở. Nếu không có cái ngửi thì có thể có thích hay không thích hay không? Ngửi là tâm và thích thì là tâm sở, đó là những thực tại khác nhau. Tâm và tâm sở sinh khởi cùng nhau kinh nghiệm cùng một đối tượng. Khi tâm sinh khởi, có ít nhất bảy biến hành tâm sở sinh khởi cùng nó. Cái thấy là tâm, và cái thích cái được thấy là tâm sở. Sân cũng là một tâm sở. Khi sân sinh khởi, nó kinh nghiệm một đối tượng mà nó không thích. Bạn không thích cái gì?
HV 2: Con không thích thời tiết lạnh.
Achaan: Cái không thích ấy là một thực tại, một tâm sở, nó có đặc tính khác với thích, đó là hai đặc tính khác nhau. Và bây giờ chúng ta bắt đầu hiểu được sự khác biệt giữa tâm và tâm sở. Không hiểu là thực đúng không? Hiểu biết đúng hay trí tuệ cũng là thực đúng không? Theo Đức Phật thì không hiểu chính là vô minh hay là si (moha/avijja). Hiểu biết đúng cũng có nhiều mức độ và nhiều từ đồng nghĩa, ví dụ như chánh kiến, trí tuệ hay tuệ giác. Vậy hiểu biết đúng hay trí tuệ là tâm hay là tâm sở?
Học viên 1: Cetasika- Tâm sở.
Achaan: Vậy thì trong một ngày, bất cứ cái gì sinh khởi thì bạn biết đó không phải là bạn, đó chỉ là một pháp sinh khởi cùng với tâm ở khoảnh khắc đó mà thôi.
Học viên 2: Khi mình nói là tâm thiện và tâm bất thiện thì không chính xác mà phải nói là tâm sở bất thiện và tâm sở thiện, có đúng không ạ?
Jonathan: Vừa rồi chúng ta có nói đến các biến hành tâm sở, gồm có bảy. Chẳng hạn xúc– tiếp xúc với đối tượng, tưởng– sanna đánh dấu đối tượng, và thọ – cảm nhận đối tượng . Một số tâm sở chỉ là bất thiện mà thôi. Chẳng hạn như tâm sở lobha- tham và tâm sở dosa- sân. Một số tâm sở khác luôn là thiện, chẳng hạn tâm sở vô tham –alobha và vô sân- adossa và tâm sở chánh niệm -sati, tâm sở trí tuệ -panna. Tùy thuộc tâm sở nào sinh khởi cùng với tâm, nó sẽ quyết định tâm đó là thiện hay bất thiện. Một số tâm sở được gọi là nhân, chẳng hạn như các tâm sở tham sân si là những nhân bất thiện, trong tiếng Pali là hetu. Những tâm sở tịnh hảo như vô tham, vô sân, trí tuệ thì là những nhân thiện. Bản thân tâm thôi thì trong sáng nhưng nó có tính chất thiện hay bất thiện tùy thuộc vào những tâm sở đồng sinh với nó.
Sarah: Liên quan đến câu hỏi của bạn về Nghiệp, thì như sáng nay chúng ta đã nói, khoảnh khắc của thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm là các khoảnh khắc của quả của nghiệp, và mỗi tâm như vừa kể trên thì đều sinh khởi với bảy biến hành tâm sở và các tâm sở này cũng đều là quả của Nghiệp. Chính vì chúng là quả của Nghiệp cho nên chúng ta gọi những tâm đó là quả, và những tâm sở đó cũng là quả, chúng không hề có tính chất thiện hay bất thiện. Nhưng sau đó, các tâm ấy có thể được tiếp nối bởi những tâm thiện hoặc bất thiện -thích hoặc không thích cái vừa được kinh nghiệm, hoăc có hiểu đúng về đối tượng ấy. Chỉ ở trong những khoảnh khắc đó thì ta mới có thể nói rằng những tâm sở bất thiện đó làm duyên cho tâm trở nên bất thiện. Và ngược lại khi tâm sở thiện sinh khởi thì tâm cũng là thiện. Cho nên, mặc dù tâm sở nhất tâm sinh khởi với tất cả các tâm và luôn có đặc tính là trụ vào đối tượng, bản chất của nhất tâm thiện (kusala ekaggata) và nhất tâm bất thiện (akusaka ekaggata) là hoàn toàn khác nhau. Cũng tương tự như vậy với các tâm sở tợ tha khác. Tương tự như vậy, tính chất của tâm thiện đồng sinh với những tâm sở thiện hoàn toàn khác với tính chất của tâm bất thiện đồng sinh với tâm sở bất thiện.
HV 2: Như vậy sự hiểu biết đúng đóng vai trò như thế nào trong tiến trình này?
Sarah: Chẳng hạn bây giờ đang có cảm thọ dễ chịu, cảm thọ dễ chịu này có thể sinh khởi cùng với sự dính mắc, hoặc với tâm thiện có sự an tịnh trong đó. Vậy liệu có thể biết được có samatha trong khoảnh khắc này không? Điề ấy chỉ có thể được vun bồi qua sự phát triển của hiểu biết đúng, cái bắt đầu biết được đặc tính của tham và đặc tính của sự an tịnh, đặc tính của cái thấy, đặc tính của sự dính mắc vào cái được thấy – những thực tại khác nhau đang xuất hiện hiện giờ trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Chính vì vậy, Achaan nói rằng dù chúng ta nói đến phát triển samatha hay phát triển vipassana thì ngay từ đầu vai trò của hiểu biết đúng hay trí tuệ là vô cùng quan trọng. Chỉ thông qua sự phát triển của hiểu biết đúng thì mới có sự chân thực với những gì đang xuất hiện hiện giờ. Nếu không, ta sẽ cho rằng cảm giác dễ chịu yên ả này là sự an tịnh, hay chẳng hạn, cho rằng chánh niệm là có sự hay biết khi ta mở cửa. Đó chính là lý do mà Achaan nói rằng chúng ta phải nghiên cứu kỹ từng từ một và luôn luôn phải quay về với khoảnh khắc hiện tại.
Achaan: Tất cả mọi người đều có thể trả lời cái gì đang xuất hiện hiện giờ. Cái gì đang xuất hiện hiện giờ?
Học viên 1: Hiện giờ đang có cái nghe.
Achaan: Hiện giờ cái nghe đang xuất hiện, liệu có thể có cái hiểu rằng cái nghe chỉ là một thực tại đang xuất hiện mà thôi không? Để có thể hiểu một thực tại thì không phải chỉ nghĩ về cái đang không xuất hiện, trong khi cái đang xuất hiện hiện giờ không được nhận biết. Kể cả khi chúng ta đã nghe về những từ như pháp, danh hay sắc, thì tất cả vẫn chỉ là ngôn từ mà thôi. Nhưng đặc tính của cái đang xuất hiện thì khác với những thực tại khác, chẳng hạn âm thanh thì không phải là cái nghe. Nếu ở khoảnh khắc đó mà nghĩ đến việc hiểu những thứ khác thì liệu có thể được hay không? Vì vậy nếu như chúng ta đã hiểu đúng một thực tại, thì có thể hiểu thêm một từ nữa, đó là từ chánh niệm. Nếu không thì tất cả sẽ chỉ là ngôn từ mà thôi. Cái nghe vẫn là chỉ là một tên gọi mà thôi, âm thanh cũng vậy và vô minh cũng thế, vẫn chỉ là ngôn từ. Trên thực tế, ở khoảnh khắc của cái nghe, không hề có suy nghĩ về ngôn từ. Nhưng do chúng ta đã được nghe trước đây rằng: nghe là một thực tại, chính vì vậy khi nó xuất hiện, nó rất thực.
Chúng ta không cần phải nghĩ đến từ pháp, nhưng khi hiểu rằng nó là thực, đó chính là hiểu ý nghĩa của từ pháp. Pháp xuất hiện đối với vô minh bất cứ khi nào không có tác ý chân chánh hướng tâm đến đối tượng ấy. Chúng ta nói đến chánh niệm và trí tuệ, chúng không có ở đó khi chúng không xuất hiện, và như vậy vẫn chỉ là nghĩ về những thực tại ấy mà thôi. Những thực tại ở mức độ ấy sẽ không thể sinh khởi nếu như không có hiểu biết vững chắc về Giáo lý ở mức độ tư duy, cái là nhân duyên duy nhất để cho chánh niệm và trí tuệ phát triển.
Chúng ta được nghe rằng âm thanh là thực, và rằng nó khác với thực tại là cái nghe. Cái nghe kinh nghiệm thực tại là âm thanh đó và nó khác với thực tại là âm thanh. Nếu không học một cách từ từ về những kinh nghiệm xuất hiện , rằng đó chỉ là kinh nghiệm mà thôi, thì sẽ luôn luôn có ý niệm về “tôi” ở đâu đó, bởi sakaya ditthi-thân kiến tức là tà kiến về ngã đã được bắt rễ rất sâu dầy. Chúng ta luôn học một cách rất hời hợt: chúng ta đã nghe về từ ngũ uẩn. Chúng ta có thể tụng, chúng ta có thể đặt tên, trích dẫn về nó bất cứ lúc nào, nhưng không có hiểu biết thực sự về bất cứ uẩn nào. Chẳng hạn, ở khoảnh khắc của cái nghe, thực tại không thể kinh nghiệm gì cả được gọi là sắc. Để có thể hiểu được đặc tính của âm thanh, cần phải hiểu rõ âm thanh là thực tại không kinh nghiệm gì cả.
Dường như chỉ là sự nhắc đi nhắc lại về cái thấy và cái nghe, về đối tượng thị giác và âm thanh. Chừng nào vẫn chưa có hiểu biết một cách cụ thể và chính xác, ta vẫn cần phải nghe nữa, để không bao giờ quên rằng bất cứ cái gì xuất hiện chỉ là thực tại mà thôi và cái kinh nghiệm nó thì không phải là tự ngã. Nếu không, ta sẽ luôn luôn quên lãng. Câu hỏi là ở đâu, khi nào và lúc nào là pháp, có thể được hiểu ở ngay chính khoảnh khắc này. Hiểu biết có thể phát triển sâu dần, sâu dần, để đến mức độ có thể xuyên thấu sự sinh và diệt của các thực tại.
Ở khoảnh khắc của cái thấy chúng ta có cần phải nghĩ đến những tâm sở khác nhau không, có tâm sở nào trong đó đang xuất hiện không? Vậy thi cái gì có thể là đối tượng của hiểu biết để có thể phát triển sự hiểu biết ở ngay khoảnh khắc này? Không phải chỉ đơn giản nhớ rằng có bảy tâm sở sinh khởi cùng với tâm ấy, bởi vì hiện giờ không có tâm sở nào trong số đó đang xuất hiện để được hay biết. Ai biết được cảm thọ ở khoảnh khắc có cái thấy? Có thọ đấy nhưng nó có xuất hiện không? Nhưng bây giờ cái thấy đang thấy, nó đang thấy và nó đang kinh nghiệm đối tượng được thấy một cách trong sáng. Trong tiếng Pali có một từ để phân biệt giữa tâm và tâm sở, đó là từ trong sáng – pandara, bởi vì nếu không có tâm sở thì tâm hoàn toàn trong sáng. Vậy thì nó là akusala pandara, bởi vì chúng ta mới chỉ nói đến yếu tố kinh nghiệm mà thôi, chứ chưa nói đến các thực tại sinh khởi cùng với thực tại ấy (tức là yếu tố kinh nghiệm hay tâm) hiện giờ. Việc nghiên cứu tiếng Pali sẽ tạo duyên cho cái hiểu kỹ hơn về vô ngã, trước khi có khoảnh khắc từ bỏ ý niệm về ngã trong cái thấy, cái nghe, suy nghĩ hay bất cứ khoảnh khắc nào. Ta có thể thấy được sự khác biệt giữa avijja- vô minh và panna-trí tuệ. Nếu không nghe thêm về citta- tâm thì liệu đã có thể có cái hiểu về tâm hiện giờ hay chưa? Cái vẫn xuất hiện mà không được hiểu đúng thì chỉ có thể xuất hiện trở lại để cho trí tuệ hiểu khi có thêm các hiểu biết nền tảng về lý thuyết. Chẳng phải sẽ cần đến nhiều a-tăng-kỳ kiếp để có thể phát triển trí tuệ xuyên thấu được chân lý này hay sao? Các vị đệ tử của Đức Phật đã phải tích lũy rất nhiều ba la mật để có thể xuyên thấu được Tứ Thánh Đế khi nghe giảng Pháp. Hiện giờ chúng ta đang ở đâu? Mức độ hiểu biết của chúng ta như thế nào? Chúng ta đã nghe Pháp được bao nhiêu rồi? Để hiểu được thực tại thì cần phải nói về một thực tại ở một thời điểm.
HV 2: Xin Bà hãy chia sẻ hiểu biết về nghiệp.
Achaan: Bây giờ chúng ta sẽ học từng từ. Kamma (nghiệp) là gì? Nó có thực không? Cái thấy có phải là nghiệp không? Nếu không có sự nghiên cứu, ta sẽ dễ cho rằng cái thấy là nghiệp.
HV 2: Nhưng tác ý (cetana) sinh khởi ở khoảnh khắc thấy là nghiệp.
Achaan: Vậy nó là loại nghiệp nào? Nếu không nghiên cứu Giáo lý, chúng ta sẽ không thể biết được một cách chính xác. Cetana sinh khởi ở bất cứ tâm nào và có hai khía cạnh khác nhau. Ở khoảnh khắc của cái thấy, cetana sinh khởi theo đồng sinh duyên (sahajata –jata: sinh khởi, saha: cùng nhau). Cetana ở khoảnh khắc đó không có năng lực tạo quả, không phải là nana khanika kamma (có thể tạo nghiệp về sau). Không ai là người thu xếp để cho các tâm sở sinh khởi cùng với những tâm ấy theo cái cách như vậy, nó chỉ sinh khởi theo các duyên tương ứng như thế mà thôi. Ở Thái lan, mọi người sử dụng những từ như là thiện và bất thiện, nhưng họ chỉ nói về nhân mà không nói về quả. Trong tiếng Pali thì quả là vipaka. Có hai nhân thiện và bất thiện, nghiệp thiện thì sẽ tạo duyên cho quả thiện, nghiệp bất thiện thì tạo duyên cho quả bất thiện. Nhưng chỉ những từ như vậy thôi thì không giúp chúng ta hiểu được khoảnh khắc này, chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu.
Bắt đầu từ khoảnh khắc đầu tiên của cuộc sống, khoảnh khắc của thức tái tục, là khoảnh khắc của sự sinh khởi của các tâm, tâm sở và sắc được tạo duyên bởi nghiệp. Nếu không có nghiệp thiện hoặc bất thiện thì quả sẽ không thể sinh khởi. Tâm đó (thức tái tục) sinh khởi do một nghiệp đã được tạo, có thể trong kiếp trước hoặc nhiều kiếp trước đó. Vậy có ai biết được kiếp sau của chúng ta sẽ là gì không? Điều ấy sẽ được tạo bởi duyên không chỉ bởi các nghiệp ở kiếp này. Nhưng để có thể được tái sinh làm người thì chắc chắn đó là kết quả của nghiệp thiện. Có ai biết được nó là kết quả của nghiệp thiện bố thí, nghiệp thiện trì giới hay nghiệp thiện bhavana không? Nghiệp tạo duyên cho thức tái tục tập hợp tất cả những nghiệp có thể tạo quả trong kiếp sống ấy. Chính vì vậy sau khoảnh khắc của thức tái tục, một cuộc sống mới, một cuộc sống khác bắt đầu. Tất cả các anh chị em của chúng ta đều có những quả khác nhau của nghiệp. Vậy thì khoảnh khắc đầu tiên của kiếp sống là nghiệp hay là quả của nghiệp?
Ai đó trả lời; Vipaka- quả của Nghiệp.
Achaan: Nghiệp không chỉ tạo ra khoảnh khắc của thức tái tục. Vẫn nghiệp ấy cũng tạo duyên cho thức tiếp theo sau khi thức tái tục diệt đi. Tâm tiếp nối sau thức tái tục không đảm nhận cùng một chức năng với thức tái tục. Nghiệp đã tạo ra thức tái tục đó sẽ tiếp tục tạo quả để duy trì cái gọi là một con người cụ thể nào đó cho đến phút lâm chung. Chính vì vậy mới có cái gọi là một con chim sinh ra, rồi một con chim chết đi. Tất cả những nghiệp thiện mà ta tạo được trong kiếp này vẫn chưa tạo được quả làm chư thiên được cho đến khi tử thức sinh khởi. Sau khi tử thức đã diệt đi, thức tái tục đầu tiên của kiếp sống mới lại được tạo duyên để có một con người khác, bởi một nghiệp khác. Không ai có thể trở thành một người cũ một lần nữa, dù trong một khoảnh khắc mà thôi. Nghiệp không chỉ tạo nên khoảnh khắc đầu tiên của một kiếp sống, mà nghiệp cũng tiếp tục tạo nên khoảnh khắc của cái nghe, cái thấy, cái ngửi, nếm, xúc chạm ở thời điểm chín muồi. Nếu chưa phải là thời điểm của cái thấy thì có thể có cái thấy được không? Nhưng khi nghiệp đã trổ quả để có thể có cái thấy thì liệu cái thấy không thể không sinh khởi không? vậy bất cứ khoảnh khắc nào của cái thấy là quả của nghiệp. Ở bất cứ khoảnh khắc nào của nghe, ngửi nếm xúc cham, đó cũng là quả của nghiệp. Không ai có thể lựa chọn khoảnh khắc cho các thực tại ấy sinh khởi.
HV 2: Achaan đã nói rất kỹ về các nhân duyên khi tâm sở thiện và bất thiện đi kèm với các tâm khác nhau do nhân duyên, và nhân duyên ấy cũng lại được các nghiệp quá khứ quy định. Vậy làm sao có thể dùng hiểu biết một cách đúng đắn để thay đổi cái hướng đi của nghiệp? Nếu chúng ta không tu tập thì nghiệp sẽ dắt chúng ta đi hoài đến những dòng tâm sở bất thiện.
Achaan: Bây giờ chúng ta hãy nói về một thực tại thôi, đó là cetana hay tác ý hoặc còn gọi là Tư. Cetana là một tâm sở trong bảy biến hành tâm sở sinh khởi với mọi tâm. Ở khoảnh khắc của thức tái tục, thức tái tục sinh khởi cùng với cetana. Không chỉ với cetana mà còn với cả các tâm sở khác được xác định bởi cái nghiệp đã tạo ra thức đó. Với các tâm sở thiện hay các tâm sở bất thiện thì tùy thuộc vào nghiệp đã tạo. Như vậy ở khoảnh khắc này nghiệp đã làm duyên cho tâm cùng với cetana và các tâm sở khác đồng sinh. Vì vậy chúng ta cần phải hiểu rõ đặc tính cũng như chức năng của mỗi thực tại, của các tâm và tâm sở khác nhau, chẳng hạn như tâm thì đảm nhiệm chức năng kinh nghiệm đối tượng và mỗi tâm sở thì lại đảm nhận chức năng riêng của chúng. Thông thường chúng ta vẫn chỉ biết về cetana trong cuộc sống hàng ngày qua các tác ý (ý định) thiện và bất thiện, nhưng thực chất cũng có cetana là quả (vipaka) nữa. Xin mời Jonathan nói về các khía cạnh khác nhau của cetana.
Jonathan: Mỗi một tâm sở có một chức năng cụ thể. Cetana có chức năng điều phối các tâm sở khác để hoạt động cùng hỗ trợ tâm. Cetana cũng còn một chức năng khác nữa. Khi sinh khởi cùng với tâm thiện hoặc tâm bất thiện, nó có nhiệm vụ thúc đẩy tâm làm việc thiện hay bất thiện. Chính vì vậy, Achaan đã đề cập tới hai khía cạnh khác nhau của cetana. Khía cạnh sau của cetana chính là chức năng tạo nghiệp, cái sẽ mang tới quả về sau.
Sarah: Tóm tắt lại, cetana sinh khởi với mỗi tâm theo duyên hệ được gọi là đồng sinh duyên (sahajata). Ở khoảnh khắc đầu tiên (ở một kiếp sống), tâm là tâm quả. Ở khoảnh khắc đó, cetana làm nhiệm vụ điều phối các tâm sở khác để giúp tâm đảm nhận chức năng của mình. Khoảnh khắc này chẳng hạn, cái thấy bây giờ cũng là quả của nghiệp, cái thấy đó cũng đồng sinh với cetana. Cetana điều phối các tâm sở cùng với tâm, giống như là một người lớp trưởng, để tâm kinh nghiệm đối tượng thị giác đó. Cái đó được gọi là sahajata kamma (đồng sinh nghiệp duyên), mà thực chất là quả của nghiệp quá khứ, đó cũng là vipaka cetana, vì nó sinh khởi cùng với tâm quả. Sau đó, có thể có sự dính mắc hay khó chịu với cái được thấy. Ở những khoảnh khắc đó, cetana lại có một chức năng khác, được gọi là nana khanika kamma. Khoảnh khắc có tham và sân thì tham và sân được tích lũy. Như bây giờ chẳng hạn, có thể có một chút tham, một chút sân nhưng mà nó vẫn chưa đủ mạnh để tạo nghiệp. Nếu những dính mắc đó được tích lũy đến mức độ có thể khiến cho ta lấy một món đồ không phải là của mình, hay sân trở nên mạnh mẽ đến mức giết một con côn trùng hay con vật nào đó, khi đó sẽ trở thành kamma patha- nghiệp đạo, tức là nghiệp được thể hiện qua thân và khẩu và sẽ tạo ra quả trong tương lai. Như vậy nghiệp luôn có cetana dẫn đầu nhưng không phải nghiệp nào cũng tạo ra quả.
Achaan: Hiện giờ có cetana không? Chắc chắn rồi. Mặc dù là hiện giờ cũng có cetana nhưng chúng ta không biết gì về nó cả. Khi có những ý định thiện hoặc bất thiện, cetana có thể được nhận biết. Nhưng ở khoảnh khắc của cái thấy, cetana chỉ có một vai trò là điều phối, thúc đẩy các tâm sở đảm nhận chức năng của mình. Cetana không phải là lobha (tham), nhưng khi nó sinh khởi cùng với tham và các tâm sở khác, nó thúc đẩy những tâm sở đồng sinh, chẳng hạn như tham đi theo nó. Giống như với một người lớp trưởng, các tâm sở khác sẽ đi theo cetana. Và khi tham rất mạnh mẽ, cetana sẽ muốn làm một việc không đúng đắn. Chính vì vậy, mặc dù có rất nhiều tâm sở cùng đồng sinh tại khoảnh khắc đó, chỉ cetana mới đóng vai trò tạo nghiệp. Tham có thể là nghiệp không? Sân có thể là nghiệp không? Tham có chức năng là dính mắc vào đối tượng, bất cứ khi nào nó sinh khởi thì nó bám víu vào đối tượng. Nhưng cetana thúc đẩy khiến cho tham mạnh hơn nữa. Dù cái mà nó thúc đẩy là thiện hay bất thiện, nó cũng sẽ đảm nhận chức năng của nó.
HV 2: Bà có nói là mặc dù nhiều tâm sở cùng sinh khởi nhưng chỉ có tâm sở cetana mới tạo nghiệp thôi. Con muốn hỏi rõ hơn một chút. Lấy ví dụ, con nhìn thấy một cô gái rất là xinh thế xong con có cái thích thì đó là cái tham nhưng mà con chưa có tác ý tạo nghiệp gì cả. Nhưng cái tham ấy lại biến chuyển là con bắt đầu tưởng tượng là con sẽ chiếm đoạt cô ấy bằng cách nào vân vân. Vậy những suy nghĩ ấy thì có phải là ý nghiệp không?
Sarah: Có ba mức độ là ý nghiệp, thân nghiệp, khẩu nghiệp. Nếu chỉ dừng ở mức độ tham và sân trong suy nghĩ thì nó ở trong ý nghiệp, nhưng khi tham và sân được tích lũy và trở nên lớn mạnh hơn, nó sẽ thúc đẩy hành động qua khẩu và qua thân. Khi có hành động qua khẩu và qua thân, nó sẽ tạo nghiệp và được gọi là nghiệp đạo (kamma patha). Còn lúc trước, nó là ý nghiệp nhưng chưa có khả năng tạo quả, nó chỉ làm duyên cho sự tích lũy tiếp theo của tham và sân, cái về sau có thể làm duyên cho nghiệp đạo.
Achaan: Các thực tại sinh khởi cùng nhau và tạo duyên cho nhau, chẳng hạn như cetana sinh khởi cùng tham thì không chỉ có cetana làm duyên cho tham, mà ngược lại tham cũng làm duyên cho cetana. Cho nên khi tham ở mức độ nhỏ thì cetana không đủ mạnh, nhưng khi tham ở mức độ mạnh hơn thì nó cũng làm duyên cho cetana trở nên mạnh mẽ hơn và thúc đẩy tạo ra nghiệp đạo.
Sarah: Tất cả phiền não như tham hoặc sân thì đều rất là nguy hiểm. Bởi vì tuy bây giờ nó chưa đủ mạnh để dẫn đến nghiệp thân và nghiệp khẩu nhưng nó có thể tạo duyên cho tham và sân tiếp tục tăng trưởng và tạo nghiệp dẫn đến quả về sau.
HV 2: Sau những lời giải thích chi tiết về nghiệp, đề nghị Achaan nói rõ thêm với những hiểu biết đúng đắn thì làm sao ta có thể giảm được tác động của nghiệp và làm sao chúng ta có thể tăng hiểu biết trong quá trình tu tập?
Jonathan: Trước hết chúng ta cần phải phân biệt hai thứ, một là những nghiệp đã tạo và thứ hai là những xu hướng được tích lũy. Bởi vì nghiệp một khi đã được tạo sẽ tạo ra quả, chứ sẽ không tạo ra cái cách mà chúng ta sẽ là trong tương lai. Như vừa rồi Sarah có nói, các tâm sở, chẳng hạn như thiện và bất thiện, cũng được tích lũy, mặc dù nó sinh và diệt, nhưng sau khi diệt đi, những xu hướng được tích lũy vẫn tiếp tục được chuyển tiếp cho tâm tiếp theo và cứ như thế. Chẳng hạn, không thích lạnh cũng là một xu hướng được tích lũy. Thích một số vị cụ thể nào đó cũng là một xu hướng được tích lũy. Sở dĩ chúng ta có những phiền não là bởi vì những phiền não cũng được tích lũy. Tương tự như vậy, thiên hướng thiện cũng được tích lũy, trong đó cũng bao gồm cả trí tuệ. Những hiểu biết đã từng sinh khởi và được tích lũy trong quá khứ đã diệt đi hoàn toàn rồi, nhưng xu hướng của nó vẫn còn được tích lũy trong những tâm tiếp theo. Tâm thiện hoặc bất thiện sinh khởi phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau, nhưng một phần trong đó là các xu hướng đã được tích lũy từ trước đến giờ. Nếu nói đến hiểu biết, ở đây chúng ta nói đến hiểu biết và chánh niệm về thực tại, và điều này tùy thuộc rất lớn vào việc được nghe pháp và suy xét về những gì được nghe. Nếu như có sự suy xét một cách chân chánh thì nó có thể tạo duyên cho sự sinh khởi Trí tuệ sau đó. Đó là lý do Achaan nhấn mạnh đến việc nghiên cứu giáo lý. Đó là việc cần phải được làm bởi vì chúng ta đã sinh ra trong kiếp này là để nghiên cứu giáo lý Đức Phật.
HV 2: Tâm sở sinh và diệt rất nhanh nhưng nó vẫn tạo xu hướng, tạo duyên cho tâm sở trong tương lai, chính vì vậy tạo nghiệp trong tương lai Như vậy tất cả các pháp đều sinh và diệt. Vậy thực tế nghiệp nó được tích lũy như thế nào, nó nằm ở đâu? Nghiệp ở đâu?
Achaan: Bạn có thích bông hoa này không?
HV 2: Có
Achaan: Thế bạn có lấy nó mang về nhà không?
HV 2: Không.
Achaan: Rõ ràng là tùy thuộc vào mức độ của sự dính mắc. Nếu như sự dính mắc không đủ mạnh, nó sẽ không tạo duyên đưa đến hành động, nhưng trong quá trình đó thì vẫn có cetana. Như thế chúng ta có thể thấy được sự khác biệt giữa cetana và tham, nhưng chúng tạo duyên qua lại với nhau.
HV 2: Vậy làm thế nào mà nghiệp được tích lũy và nó tích lũy ở đâu?
Achaan: Các tâm và tâm sở đồng sinh và đồng diệt, cái đã sinh khởi rồi thì lại làm duyên cho tâm tiếp theo.
Jonathan: Nó chẳng phải giống như những xu hướng của chúng ta hay sao? Những cái chúng ta thích và không thích. Liệu chúng ta có thể phân vân là nó ở đâu và làm thế nào mà những xu hướng ấy được chuyển từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác. Thế nếu đặt câu hỏi “Kamma ở đâu?”, bạn có muốn biết tham ở đâu, sân ở đâu không?
HV 2: Nếu tôi biết được thì rất là tốt, nhưng mà tôi vẫn chưa biết.
Jonathan: Bạn nghĩ rằng nếu như bạn biết được thông tin này thì bạn sẽ có thể tận diệt được phiền não của mình hay sao?
HV 2 : Tôi hi vọng như vậy
Jonathan: Bạn có biết là tâm sở nào đảm nhận chức năng tận diệt các phiền não ngủ ngầm không?
HV 2: Panna- Trí tuệ.
Jonathan: Như vậy thì không phải là một người nào đấy có thể tận diệt được phiền não mà đó là tâm sở Trí tuệ, khi nó được tích lũy một cách đầy đủ, nó sẽ đảm nhận được chức năng của nó là tận diệt phiền não.
HV 2: Thế còn những nghiệp mà tích lũy hàng bao nhiêu tiền kiếp trước thì nó được cất giữ ở đâu?
Jonathan: Biết nó được cất trữ ở đâu không có ích gì. Chỉ cần biết rằng chúng ta không thể thoát khỏi chúng là đủ.
Học viên 1: Tôi có một kiến giải cho câu hỏi này, mình không thể biết được nghiệp nó tích lũy ở đâu cả chỉ khi nào nó cho cái quả thì mới biết được, giống như cái quả trên cây, trước khi nó trở thành cái quả thì mình có biết được nó nằm ở chỗ nào không? Không biết được đúng không?
Học viên 2: Những cái mà mình chưa biết thì chưa chắc nó không có ở đấy, đó có thể là do vô minh cho nên mình mới không biết, do đó phải hỏi Achaan là nó ở đâu và làm cách nào để biết.
Sarah: Thế như điện chẳng hạn, liệu chúng ta có biết là điện được chuyển hóa như thế nào, nó được dẫn dắt như thế nào hay không?
HV 2: Chúng ta thì không biết nhưng các nhà khoa học thì biết.
Sarah: Đức Phật có dạy về hai tư duyên hệ. Trong đó có giải thích rất chi tiết về các loại duyên hệ khác nhau và những nghiệp khác nhau. Những gì thuộc về nghiệp và quả của nghiệp thì chỉ có một mình Đức Phật mới có thể có hiểu biết chi tiết mà thôi. Trong kinh điển có nói rằng, chúng ta sẽ bị điên nếu như cố gắng hiểu cái điều mà chúng ta không thể hiểu, một trong những điều được gọi là “bất khả tư nghì”.
Một trong hai tư duyên hệ là vô gián duyên, nghĩa là mỗi tâm diệt đi lại tạo duyên cho sự sinh khởi của tâm tiếp theo. Điều này có nghĩa là tất cả những xu hướng đã được tích lũy trong tâm trước sẽ chuyển qua tâm sau, bao gồm tất cả những xu hướng thiện cũng như bất thiện ngủ ngầm trong đó. Sự diệt đi của tâm đó lại tạo duyên cho sự sinh khởi của những tâm tiếp theo, và khi có những duyên khác thì các xu hướng ngủ ngầm sẽ sinh khởi. Chẳng có cái gì mất đi cả, nhưng ta không thể nói về một cái kho nơi cất giữ những thứ đó.
HV 2: Chúng ta không biết nhưng có thể Đức Phật biết và có thể Ngài đã nói gì đó về điều này.
Sarah: Đó là một trong những điều bất khả tư nghì đã được ghi lại trong kinh sách. Điều duy nhất mà chúng ta có thể nói đến đó là vô gián duyên: tâm này diệt đi làm sinh khởi tâm tiếp theo và mang theo tất cả những gì đã được tích lũy từ tâm trước sang tâm sau.
Học viên 1: Bà có nói tầm quan trọng của sự phát triển hiểu biết. Chúng ta được nghe là không phải chúng ta bắt đầu với một phương pháp hành thiền mà Achaan nhấn mạnh đến việc phải nghe pháp và suy xét và phải phát triển hiểu biết về giáo pháp một cách chân thực. Sự hiểu biết ở đây bao gồm các tầng Tuệ khác nhau và cho đến cái cuối cùng là cái khoảnh khắc giác ngộ. Vậy xin Bà cho biết làm thế nào để phát triển các tầng mức khác nhau của Trí tuệ?
Achaan: Sự phát triển của Tuệ giác rất từ từ, bắt đầu với sự tìm hiểu một cách chi tiết về các thực tại, chẳng hạn vừa rồi ta có nói về cetana và chúng ta được biết rằng nó là vô ngã, nó khác với các thực tại như tham và các thực tại khác. Càng biết thêm chi tiết về các thực tại như vậy, thì chúng ta càng hiểu thêm tính chất vô ngã của những thực tại ấy, và khi hiểu biết về tính chất vô ngã của thực tại ấy được tăng trưởng thì nó sẽ tạo duyên cho sự xả ly, nhưng kể cả khi ấy cũng chưa phải là lúc kinh nghiệm trực tiếp thực tại xuất hiện như nó thực là. Bây giờ chúng ta đều được nghe là cái thấy thì không phải là cái nghe, kể cả khi chúng ta đã được nghe điều ấy, thấy điều ấy là thật thì hiểu biết ở mức độ ấy vẫn chưa xóa bỏ được ý niệm về ngã ở khoảnh khắc của cái thấy và cái nghe, hiểu biết ấy cần phải được lặp đi lặp lại cho đến khi sinh khởi trí tuệ trực nhận. Chúng ta vẫn được nghe về cái thấy và cái nghe, và vẫn cần phải nghe tiếp cho đến khi cái thấy và cái nghe xuất hiện một cách thực sự là vô ngã, một cách trực tiếp và dần dần tiếp tục được phát triển đến mức độ Tuệ giác có thể tận diệt một cách vĩnh viễn tà kiến về ngã.
Cho đến giờ chúng ta mới nói về hai đặc tính của hai loại thực tại khác nhau. Chúng ta đã nói về thực tại có thể xuất hiện qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Nhưng cũng có loại thực tại không thể được kinh nghiệm nhưng chưa xuất hiện. Chẳng hạn như có ý niệm có cặp mắt đây, nhưng mắt thực sự có xuất hiện không? Ai kinh nghiệm được mắt đây? Cái được thấy thì chỉ là đối tượng thị giác chứ không phải là nhãn căn – thực tại có thể tiếp xúc với đối tượng thị giác. Hãy nghĩ đến khoảnh khắc trí tuệ có thể xuyên thấu được đặc tính của một thực tại sinh và diệt để không còn hiểu biết sai lầm về những khoảnh khắc đó, hiểu một cách hoàn toàn trọn vẹn, ở khoảnh khắc đó không có gì cả, không có thế gian, không có con người. Nhưng bây giờ Trí tuệ vẫn chưa ở mức độ đó bởi vì vẫn còn có vô minh sinh khởi sau khoảnh khắc của cái thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm.
Nhờ có việc nghe, hiểu biết đúng có thể sinh khởi thay cho vô minh. Tuệ giác cũng hiểu mức độ hiểu biết của nó về cái đang xuất hiện hiện giờ. Vậy đó sẽ là một con đường rất dài. Mỗi một lời của Đức Phật đều là những lời chân lý (vacca sacca). Không ai có thể thấy được tâm và tâm sở, không ai có thể thấy âm thanh. Nhưng âm thanh thì có thể xuất hiện như là những âm thanh khác nhau – cao, thấp, hay nặng, nhẹ. Tâm thì không có hình dạng, màu sắc hay mùi vị, nó là một yếu tố rất thanh tịnh, chỉ sinh khởi để kinh nghiệm một đối tượng mà thôi. Tâm thì rất khác với sắc, dù là loại tâm nào đi nữa. Cái thấy hiện giờ cũng giống như bất cứ tâm nào, nó sinh khởi chỉ để kinh nghiệm mà thôi. Tuệ giác có thể sinh khởi để xuyên thấu được bản chất thực sự của thực tại chỉ khi chúng sinh khởi. Khi sân chưa xuất hiện thì làm sao ai có thể biết được đặc tính của chúng là nhiều hơn hay ít đi đây? Trong một ngày, tham và sân vặt vãnh sinh khởi, chúng không phải là tự ngã.
Các bạn thích màu gì? Tham có thể thích bất cứ cái gì, tham có thể thích một màu cụ thể nào đó, tùy thuộc vào tích lũy khác nhau, một số người thì thích màu đỏ, một số người thì thích màu xanh. Việc thích màu xanh lại tạo duyên cho việc tiếp tục thích màu xanh. Tất cả những thực tại ấy sinh khởi và rồi diệt đi. Kể cả khi đã diệt đi rồi, những xu hướng được tích lũy sẽ được tiếp tục chuyển qua những khoảnh khắc tiếp sau và cứ như thế mãi. Do tích lũy, một số người rất từ tâm và một số thì không. Không có tự ngã nào ở đấy cả. Để có thể từ bỏ được ý niệm về ngã, cần phải có Trí tuệ sinh khởi và hiểu cái gì xuất hiện, không chỉ ở mức độ của lý thuyết. Bây giờ, chúng ta tưởng rằng mình đã hiểu điều mà mình được nghe, nhưng thực ra là chưa hiểu về các thực tại đang xuất hiện, đúng không? Chẳng hạn như cái thấy hiện giờ. Chúng ta hiểu rằng nó sinh khởi để thấy, nhưng mà chưa hiểu ở khoảnh khắc thực sự nó sinh khởi và đang thấy. Bởi vì không có người nào có mức độ hiểu biết đó ngoại trừ trí tuệ ở mức độ đó. Vậy, hãy kiên nhẫn và phát triển các loại thiện pháp làm ba la mật để tẩy rửa và thanh lọc ô nhiễm của tâm. Bởi vì tâm bất thiện sẽ không thể hiểu bất cứ cái gì sinh khởi. Và hiểu biết sẽ tạo duyên cho thiện pháp khi nó càng được phát triển nhiều hơn. Điều đó đồng nghĩa với việc vô minh sẽ giảm dần từng bước một.
Sadhu sadhu sadhu!