CHƯƠNG 1 – VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ ĐẠO PHẬT
Câu hỏi: Điều gì đã khiến Bà nghiên cứu Giáo lý của Đức Phật?
Nina: Khi mới tới Thái Lan, tôi rất quan tâm đến việc tìm hiểu thêm về người Thái. Tôi muốn hiểu hơn về văn hóa và cách suy nghĩ của họ. Tôi nhận thấy việc nghiên cứu Phật giáo là thiết yếu cho việc tìm hiểu văn hóa người Thái, bởi nền tảng tâm linh của người Thái là Đạo Phật.
Vì vậy, tôi bắt đầu nghiên cứu Đạo Phật và càng nghiên cứu, tôi càng hứng thú hơn. Khi ở Thái Lan, chúng ta nên tận dụng cơ hội nghiên cứu Đạo Phật và cũng nên cố gắng hiểu việc thực hành Đạo Phật. Hiểu biết sâu sắc không chỉ đến từ sách vở. Hiểu biết được phát triển trên hết từ việc thực hành và áp dụng Giáo lý Đạo Phật trong cuộc sống hàng ngày!
Câu hỏi: Xin Bà cho biết, ý của Bà là gì khi nói “thực hành Đạo Phật trong cuộc sống hàng ngày”?
Nina: Trước tiên, ta chứng kiến sự thực hành Đạo Phật khi thấy các hoạt động văn hóa khác nhau của người Thái, như cúng dường vật thực cho chư tăng, đảnh lễ tượng Phật hay tụng “giới” trong những dịp đặc biệt như ngày “Trai giới” (Uposatha Day) (1)
Lúc ban đầu, tôi đã nghĩ rằng những tập quán này bị pha trộn với những thứ không cần thiết cho việc thực hành Đạo Phật. Chẳng hạn, tôi thấy việc dâng trứng lên tượng “Phật Ngọc” chẳng có liên quan gì đến việc thực hành Đạo Phật. Tuy nhiên, ngay cả những tín ngưỡng dân gian như vậy cũng có thể dạy cho chúng ta điều gì đó về sự thực hành Đạo Phật.
Có nhiều mức độ hiểu biết về Giáo lý của Đức Phật. Những người dâng trứng lên tượng Phật bày tỏ tín tâm của họ đối với Ngài. Đó là một việc làm thiện, nó sẽ mang đến kết quả tương ứng. Tuy nhiên, những người dâng trứng có thể không nhận thấy rằng, chính lòng tôn kính đối với Đức Phật sẽ mang đến kết quả tốt lành, chứ không phải là quả trứng được dâng lên Ngài. Họ có thể không nhận thấy rõ nguyên nhân nào đưa đến kết quả nào. Họ sẽ nhận được kết quả tốt đẹp hơn từ việc bày tỏ lòng tôn kính Đức Phật nếu thể hiện điều ấy theo cách có ý nghĩa hơn. Chẳng hạn, họ có thể tỏ lòng tôn kính Đức Phật bằng việc tránh làm các việc bất thiện, giúp đỡ người khác, học hỏi thêm Giáo lý của Ngài và giúp người khác cũng hiểu về Giáo lý.
Câu hỏi: Bà có thể nói thêm về các mức độ hiểu Giáo lý khác nhau được không?
Nina: Khi tỏ lòng tôn kính trước tượng Phật, những người có mức độ hiểu biết cao hơn sẽ biết rằng Đức Phật đã hoàn toàn tịch diệt. Khi đã nghiên cứu Giáo lý một cách sâu sắc hơn và cố gắng kiểm chứng Giáo lý trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta sẽ hiểu rằng, dù cho Đức Phật đã tịch diệt, vẫn rất ý nghĩa khi bày tỏ lòng tôn kính tới Ngài. Chính tâm thiện của người tỏ lòng tôn kính hay cúng dường Đức Phật sẽ mang đến kết quả tương ứng. Mỗi nghiệp thiện sẽ mang đến một quả thiện cho người thực hiện nghiệp thiện đó. Chúng ta sẽ gặt hái những gì mình đã gieo.
Người tỏ lòng tôn kính Đức Phật với chánh kiến sẽ không có ý niệm sai lầm về một vị Phật ở trên trời có thể nhìn hay nghe thấy người ấy. Tượng Phật nhắc nhở người ấy về các phẩm chất cao quý của Đức Phật. Người ấy sẽ nghĩ đến trí tuệ của Đức Phật – bậc đã tự mình tìm ra con đường giải thoát khổ đau và có năng lực giúp người khác cũng tìm ra con đường ấy. Người ấy sẽ nghĩ đến sự thanh cao của Đức Phật, sự thanh cao trong mọi nghiệp thân, khẩu, ý của Ngài. Người ấy cũng sẽ nghĩ đến lòng từ bi của Đức Phật, người đã hoằng pháp bởi lòng bi mẫn với tất cả chúng sinh.
Câu hỏi: Ý nghĩa của việc cúng dường vật thực cho chư tăng là gì?
Nina: Một số người hoài nghi liệu việc cúng dường vật thực cho chư tăng có ích lợi gì. Họ có xu hướng nghĩ rằng các vị sư muốn có một cuộc sống dễ dàng và không phải lao động, nhưng họ quên rằng ý nghĩa thực sự của việc trở thành một vị sư là tìm kiếm chân lý.
Cuộc sống của một vị sư là một cuộc sống khó khăn, vị ấy không có cuộc sống gia đình, vị ấy không thể lựa chọn thực phẩm cho mình và không có chút hoạt động giải trí nào như đi xem phim hay xem bóng đá. Vị ấy từ bỏ sự xa xỉ của một mái ấm gia đình, các thú tiêu khiển, lựa chọn quần áo và thực phẩm, nhằm tìm kiếm chân lý và giúp người khác cũng tìm thấy chân lý.
Khi mọi người bố thí vật thực cho các vị sư, việc làm đó sẽ mang đến kết quả cho cả hai phía. Người bố thí vật thực sẽ có được lợi ích từ việc làm của mình, vì người ấy đã có thiện tâm tại thời điểm bố thí: khi có sự quảng đại thì không có tham lam hay dính mắc. Người nhận cũng sẽ có lợi lạc từ việc làm của người bố thí bởi vì vị ấy được khích lệ để nghiên cứu và thực hành Giáo lý của Đức Phật tích cực hơn nữa và giúp đỡ những người khác cũng biết được Giáo lý. Vị ấy biết rằng, vật thực được nhận đặt trách nhiệm lên vị ấy, vị ấy cần xứng đáng với đồ dâng cúng đó bằng việc cống hiến cho phúc lợi tinh thần của toàn thế giới. Các vị sư liên tục được nhắc nhở về trách nhiệm của mình, và hai lần một tháng họ phải tụng “Giới luật Tỳ kheo” (Pātimokkha) là bản tập hợp các nghĩa vụ của Tì kheo. Hơn nữa, khi người nhận hay biết về thiện tâm của người bố thí, vị ấy sẽ hoan hỷ với nghiệp thiện đó của người bố thí và vì vậy, vị ấy cũng sẽ có tâm thiện; lòng quảng đại của người bố thí sẽ lan tỏa tới vị ấy.
Câu hỏi: Bà có thấy khó khăn khi nghĩ về khái niệm “trạng thái tâm” không? Nghĩ về trạng thái tâm của bản thân dường như là một thái độ vị kỷ?
Nina: Nghĩ về trạng thái tâm của bản thân là rất thực tế, vì các trạng thái tâm khác nhau sẽ khiến chúng ta hành động theo cách này hay cách kia. Chỉ khi nghiên cứu trạng thái tâm của mình và các yếu tố khiến chúng thành ra thế này hay thế kia, chúng ta mới có thể hiểu động cơ sâu xa nhất trong các hành vi của mình. Điều đó không phải là vị kỷ, vì chúng ta phải biết về bản thân mình trước khi có thể hiểu được người khác.
Thông qua nghiên cứu Vi diệu pháp (Abhidhammā), chúng ta có thể bắt đầu hiểu biết hơn về các trạng thái tâm của mình. Vi diệu pháp là một bộ phận của Giáo lý của Đức Phật, nó phân tích các trạng thái tâm khác nhau và giải thích chi tiết về tất cả những gì là thực. Nghiên cứu Vi diệu pháp sẽ giúp chúng ta hiểu nguyên nhân nào sẽ mang đến kết quả nào trong cuộc đời mình và cuộc đời của người khác.
Câu hỏi: Bà có thấy rằng Vi diệu pháp có thể được kiểm chứng trong đời sống hàng ngày?
Nina: Nhận ra rằng Vi diệu pháp có thể được kiểm chứng trong cuộc sống hàng ngày thật là một khám phá lớn đối với tôi, mặc dù khi mới bắt đầu, ta chỉ có thể kinh nghiệm một phần các thực tại mà Vi diệu pháp đề cập tới.
Đầu tiên ta có thể nghĩ rằng Vi diệu pháp quá vi tế và hoài nghi liệu có cần thiết phải nghiên cứu nhiều mức độ vô minh và trí tuệ như vậy không. Nhưng chúng ta sẽ học được rằng, mỗi một mức vô minh và trí tuệ khác nhau này cũng sẽ mang đến một kết quả tương ứng của nó.
Khi nghiên cứu Vi diệu pháp, chúng ta cũng sẽ có thêm hiểu biết về người khác. Chúng ta học được rằng, mọi người khác nhau là do các tích lũy kinh nghiệm khác nhau trong quá khứ. Bởi những tích lũy khác nhau mà mọi người hành xử khác nhau. Tại mỗi khoảnh khắc, kinh nghiệm mới lại được tích lũy, và điều ấy sẽ tạo duyên cho cái chúng ta sẽ ra sao và cái chúng ta sẽ kinh nghiệm trong tương lai.
Khi hiểu hơn về những tích lũy khác nhau của mỗi người, chúng ta sẽ bớt xu hướng chỉ trích người khác. Khi chúng ta thấy người khác đảnh lễ Đức Phật với hiểu biết ít ỏi, chúng ta biết rằng tích lũy của họ là như vậy và rằng họ đang thực hiện một nghiệp thiện theo khả năng của họ.
Câu hỏi: Bà có nghĩ là một người với hiểu biết rất ít ỏi có thể đạt đến mức độ hiểu biết cao hơn? Nói cách khác, khi tích lũy đã tạo duyên cho tính cách của chúng ta, liệu có thể làm gì thêm được? Liệu có thể nâng cao mức độ hiểu biết của chúng ta hay không?
Nina: Có chứ: trí tuệ có thể được phát triển dần dần và vì vậy tích lũy của chúng ta có thể được thay đổi. Những người có mức độ hiểu biết cao hơn có thể và cũng nên giúp người khác phát triển hiểu biết tới mức độ cao hơn.
Tôi xin đưa ra một ví dụ. Trẻ em có thể xuất gia trở thành sa di. Chúng trải nghiệm một phần cuộc sống của các vị sư để hiểu hơn về Giáo lý của Đức Phật và để tạo phước thiện cho cha mẹ chúng, những người có thể tùy hỷ với những nghiệp thiện chúng đã làm. Nhiều người nghĩ rằng người tạo phước thiện có thể “chia phước-hồi hướng” có được từ những việc thiện đã làm với người khác, cả với người chết cũng như người sống. Đó không phải là hiểu biết đúng. Không thể mang phước thiện của mình chia cho người khác, bởi vì tất cả mọi người chỉ nhận quả do nghiệp của mình tạo ra. Những vị sư cao hạ có hiểu biết cao hơn có thể giúp các sa di hiểu thêm về những nghiệp thiện mà họ đang làm. Nếu họ hiểu đúng ý nghĩa của những phước thiện do mình đã làm, thì sự xả ly của họ còn có hiệu quả cao hơn nữa. Các sa di tạo nghiệp thiện rất lớn trong việc từ bỏ sự thân cận với quyến thuộc nhằm nghiên cứu Giáo lý và rèn luyện theo giới luật. Điều này mang đến cho họ nền tảng tinh thần tốt đẹp trong suốt cuộc đời. Họ sẽ tự mình nhận được quả của nghiệp thiện này. Phước thiện mà họ đã làm không thể mang trao cho người khác. Tuy nhiên, người khác, dù còn sống hay đã chết, có thể có được trạng thái tâm thiện trước những việc làm tốt của một người nào đó. Chính trạng thái tâm thiện này của họ sẽ mang đến cho họ kết quả tốt đẹp. Vì vậy các bậc cha mẹ, kể cả khi đã quá cố, nếu đang ở cảnh giới có thể hoan hỷ với phước thiện của con cái mình, vẫn có thể có trạng thái tâm thiện và chính điều này sẽ mang đến quả thiện trong tương lai. Từ “chia phước-hồi hướng” là một cách diễn đạt dễ gây lầm lẫn, bởi vì nó không cho ta cái hiểu đúng về luật nhân quả thực sự.
Câu hỏi: Bà đã sử dụng từ “trạng thái tâm”. Xin Bà giải thích ý nghĩa của nó? Tôi muốn hỏi, nhìn chung, Bà có nhận thấy tiếng Anh có đủ diễn tả ý nghĩa thực của các thực tại được mô tả trong Vi diệu pháp không?
Nina: Tiếng Anh không đủ để diễn đạt ý nghĩa của các thực tại được mô tả trong Vi diệu pháp. Tam tạng (Tipiṭaka) sử dụng các thuật ngữ Pāli, và vì vậy tốt hơn nên học tiếng Pāli và hiểu ý nghĩa của chúng. Chẳng hạn, từ “trạng thái tâm”, được dịch từ từ “citta” trong tiếng Pāli, rất dễ gây hiểu lẩm. Từ “trạng thái” để chỉ cái gì đó kéo dài trong một thời gian, dù là ngắn hay dài. Tuy nhiên, mỗi một trạng thái tâm hay citta diệt ngay lập tức, ngay sau khi sinh khởi, rồi được nối tiếp bởi citta tiếp theo. Điều này xảy ra nhanh hơn cả một tia chớp. Các citta khác nhau nối tiếp cái này với cái kia nhanh đến mức dường như chỉ có một citta. Đó là lý do vì sao mọi người cho citta là “ngã”.
Tương tự, từ “tâm” có thể khiến chúng ta có ý niệm sai về thực tại. Chúng ta thường nghe câu “làm chủ tâm mình” hay “kiểm soát tâm mình”. Nhiều người nghĩ rằng tâm là một cái gì đó tĩnh có thể được nắm bắt hay kiểm soát. Có nhiều loại tâm (citta), nhưng không có tâm (citta) nào có thể được coi là “tự ngã” hay thuộc về “tự ngã”.
Trong Tiểu kinh Saccaka (Trung bộ kinh – Tập I, số 35), chúng ta đọc rằng Đức Phật đã hỏi Saccaka liệu vị này có thể làm chủ thân hay tâm của mình, như một vị vua có thể làm chủ thần dân của mình. Đức Phật đã hỏi: “Khi ông nói như vậy: “Thân là tự ngã của tôi”, liệu ông có quyền hành gì đối với thân ấy và có nói được rằng “thân của tôi phải như thế này, thân của tôi phải không như thế kia” hay không?” Đức Phật đã hỏi câu hỏi tương tự về tâm. Saccaka đầu tiên giữ im lặng, nhưng cuối cùng đã phải đồng ý rằng điều đó là không thể.
Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta có thể thấy Đức Phật đã nói đúng. Nếu làm chủ thân mình, chúng ta sẽ không già đi, sẽ không ốm đau và phải chết. Tuy nhiên, tuổi già, bệnh tật và cái chết là không thể tránh khỏi.
Chúng ta cũng không thể làm chủ tâm mình; các trạng thái tâm sinh khởi ngoài sự kiểm soát. Thích và không thích nằm ngoài sự kiểm soát, chúng sinh khởi khi có đủ nhân duyên. Khi chúng ta ăn những thứ phù hợp với khẩu vị của mình, chúng ta không thể ngăn việc thích món ăn đó. Nếu bị ai đó xúc phạm, chúng ta không thể ngăn nổi giác giận dữ; có thể sau đó chúng ta suy nghĩ và cố gắng hiểu người khác, nhưng chúng ta đã không thể ngăn được cảm giác giận giữ lúc ban đầu. Thích, không thích và ngay cả sự suy nghĩ về cái thích và không thích của mình đều không phải là “tự ngã”, chúng là các trạng thái tâm khác nhau sinh khởi khi đủ duyên.
Tất cả chúng ta đều có xu hướng coi trạng thái tâm là “tự ngã”, là “ta”. Chẳng hạn, khi thích thú cái gì đó, chúng ta cho sự thích thú ấy là “ta”. Tuy nhiên, có thể có sự giận dữ ở giây phút tiếp theo và chúng ta có thể tự hỏi vậy trạng thái thích thú mà ta coi là “ta” đã đi đâu rồi.
Con người rất thích ý niệm về “ngã” và muốn nắm giữ chúng. Đức Phật biết điều này và vì vậy, sau khi đạt giác ngộ, trong giây lát, Ngài có ý định không thuyết giảng con đường mà Ngài đã tìm thấy cho mọi người. Tuy nhiên, Đức Phật cũng biết rằng mọi người có những mức độ hiểu biết khác nhau. Chúng ta đọc trong Tương ưng bộ kinh (Tập I, Chương VI, Thiên ưng Phạm thiên, Phẩm thứ nhất, Số 1, Thỉnh cầu) rằng Đức Phật đã quán chiếu thế giới với “Phật nhãn” và thấy mỗi người có các mức độ hiểu biết khác nhau, một số người có thể hiểu được Giáo lý của Người:
Ví như trong hồ sen xanh, sen hồng hay sen trắng, có một số hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, không vượt lên khỏi mặt nước, được nuôi dưỡng dưới nước. Có một số hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, sống vươn lên tới mặt nước. Có một số hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, vươn lên khỏi mặt nước, không bị nước làm đẫm ướt. Cũng vậy, Thế Tôn trong khi với Phật nhãn nhìn quanh thế giới, thấy có hạng chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nhiều nhiễm bụi đời; có hạng lợi căn, độn căn; có hạng tánh thuận, tánh nghịch; có hạng dễ dạy, khó dạy; một số thấy sự nguy hiểm phải tái sanh thế giới khác, và sự nguy hiểm của các hành động lỗi lầm.
Vì vậy Đức Phật đã quyết định chỉ cho thế gian con đường mà Ngài đã khám phá.
Câu hỏi: Mọi người có những tích lũy khác nhau. Chúng được tạo duyên bằng nhiều cách. Chúng ta đã sử dụng từ “duyên” nhiều lần. Bà có thể giải thích ý nghĩa của từ đó được không?
Nina: Tôi sẽ đưa ra một ví dụ trong cuộc sống hàng ngày. Chồng của tôi trở về nhà từ văn phòng, cảm thấy mệt và hơi khó chịu. Tôi kể cho ông ấy nghe điều gì đó thú vị vừa xảy ra, ông ấy cười và cảm thấy vui vẻ trở lại. Vì vậy, chúng ta có thể thấy rằng có những tâm khác nhau, và rằng mỗi tâm đều có những duyên riêng của nó. Khối lượng công việc tại văn phòng là một duyên cho sự mệt mỏi và căng thẳng của chồng tôi. Sau đó lại có một duyên khác khiến ông ấy thấy vui vẻ trở lại.
Tâm là do duyên khởi và mỗi tâm đều tích lũy một kinh nghiệm mới và sẽ tạo duyên cho các tâm tiếp theo. Tất cả mọi người đều tích lũy những sở thích, khả năng, thích và không thích khác nhau. Chúng ta không phải mọi lúc đều biết về những nhân duyên khiến mình hành xử như thế này hay thế kia, nhưng đôi khi có thể biết được. Chẳng hạn, con người mắc nghiện với nhiều thứ khác nhau, một số thứ rất có hại, những thứ khác thì ít hại hơn. Nền giáo dục và môi trường sống xunh quanh của chúng ta có thể là nhân duyên cho sự nghiện ngập này. Ở một số quốc gia hay khu vực, có văn hóa uống rất nhiều cà phê mỗi ngày và người ta thậm chí còn cho trẻ nhỏ uống cà phê. Vì vậy, chúng ta đã quen dùng cà phê từ khi còn trẻ. Đối với sự dính mắc vào đồ uống có cồn, cũng chắc chắn phải có nhân duyên cho điều đó. Lúc đầu, chúng ta uống rất ít mỗi ngày và dần dần, dính mắc của chúng ta tăng lên.
Tất cả mọi người nên tự nhận ra mình đã tích lũy dính mắc đến nhường nào và điều này sẽ mang đến hạnh phúc hay đau khổ.
Câu hỏi: Chúng ta không thể kiểm soát được gì. Ngay cả mỗi tâm đều sinh khởi bởi duyên rồi diệt đi ngay lập tức, tâm này được nối tiếp bởi tâm tiếp theo. Tình huống dường như vô vọng? Bà có thể cho biết liệu có thể làm cái gì để đi theo con đường đúng trong cuộc sống?
Nina: Tình huống không phải là vô vọng. Trí tuệ, hiểu biết về thực tại, có thể tạo duyên cho chúng ta có thêm các trạng thái tâm tốt đẹp và tạo các nghiệp thiện.
Không có “tự ngã” nào có thể ngăn chặn khuynh hướng xấu của chúng ta; không có “”tự ngã” nào có thể buộc ta làm những việc thiện. Tất cả mọi người có thể kiểm chứng điều này trong cuộc sống hàng ngày. Chẳng hạn, nếu chúng ta tự nói với bản thân rằng: “Hôm nay tôi sẽ rất tốt với mọi người”, liệu chúng ta có thể ngay lập tức ngăn mình nói những lời không tốt đẹp được không? Hầu hết trong mọi lúc, lời nói khó nghe đã phát ra trước khi chúng ta nhận ra nó.
Khi ngăn chặn được cơn giận của mình trong một lúc, ta có thể nghĩ rằng có một cái “tự ngã” có thể ngăn chặn cơn giận. Trên thực tế, tại khoảnh khắc đó, có những tâm (citta) không được tạo duyên bởi sân, mà sinh khởi do các duyên khác. Sau đó sẽ lại có cơn sân bởi vì sân không thực sự được diệt bỏ bằng cách đè nén nó. Chỉ có trí tuệ thấy mọi thứ như chúng là, mới có thể dần dần diệt trừ mọi bất thiện trong ta.
Chúng ta có thể phát triển trí tuệ từng bước một. Ngay cả trí tuệ cũng không phải là “tự ngã”; trí tuệ chỉ sinh khởi khi có đủ nhân duyên. Chúng ta có thể phát triển trí tuệ thông qua kinh nghiệm trực tiếp các hiện tượng tinh thần và hiện tượng vật chất trong và xung quanh mình. Khi nhận ra rằng không có hiện tượng nào trường tồn hay bất biến, chúng ta sẽ hiểu rằng không thể coi bất kỳ hiện tượng nào là “tự ngã”, là “ta”.
Đức Phật đã giảng cho các đệ tử rằng chính là sự “thấu hiểu”, thấy mọi thứ như chúng là, sẽ tận diệt mọi bất thiện pháp. Khi vẫn đang học phát triển trí tuệ và nhận ra mình có các tâm bất thiện, chúng ta có thể khó chịu và có tâm sân với điều đó. Đức Phật là người có tuệ giác hoàn mãn, có chánh kiến về cuộc đời của mình. Ngài biết rằng không có cái “ngã” nào và tất cả mọi thứ đều sinh khởi do duyên. Vì vậy Ngài không khó chịu, ngài chỉ đơn giản hay biết giây phút hiện tại.
Từ “thấu hiểu” được sử dụng nhiều lần trong kinh. Điều này giúp thấy rằng chúng ta không phải thực hiện việc làm phi thường nào cả; chúng ta nên học hay biết về giây phút hiện tại để thấy mọi thứ như chúng là. Tất nhiên trí tuệ không thể được phát triển đầy đủ trong một ngày. Chúng ta đã quen với ý niệm về “tự ngã” từ quá lâu. Theo ngôn ngữ quy ước, chúng ta liên tục phải sử dụng từ “tôi” và “ta” để giao tiếp và diễn đạt.
Câu hỏi: Như vậy trí tuệ là thiện pháp, còn không hiểu mọi thứ như chúng là là bất thiện pháp và nó sẽ mang đến đau khổ. Bà có cho rằng Bà có thể kiểm chứng điều này trong cuộc sống hàng ngày không?
Nina: Có chứ. Tôi sẽ đưa ra một ví dụ. Chúng ta liên tục coi thân mình là “ta” mặc dù biết rằng nó không trường tồn. Vì vậy, khi phải chịu đau khổ do bệnh tật hay tuổi già, chúng ta sẽ chú trọng quá mức vào những sự việc này đến nỗi cảm thấy bị chúng hành hạ. Nếu một trong các giác quan của chúng ta không hoạt động được nữa, chúng ta sẽ cảm thấy mình là người bất hạnh nhất trên thế giới. Dính mắc vào thân mình chỉ mang đến đau khổ, trong khi đó, nếu thấy mọi thứ như chúng là, chúng ta sẽ bớt đau khổ hơn.
Nếu muốn thấy thân chỉ là thực tại như nó là, chúng ta cần phân biệt thân và tâm. Sự thực là trên thế giới này, thân và tâm tạo duyên cho nhau. Tuy nhiên, chúng ta nên biết các đặc tính khác nhau của mỗi loại, nhờ đó chúng có thể được kinh nghiệm như chúng là.
Các yếu tố cấu thành nên vật vô tri cũng cấu thành nên thân. Cả vật vô tri và thân đều được cấu thành từ yếu tố đất (địa đại) hay sự cứng, mềm, yếu tố nước (thủy đại) hay sự kết dính, yếu tố lửa (hỏa đại) hay nhiệt độ và yếu tố gió (phong đại) hay sự chuyển động (2).
Chúng ta có xu hướng nghĩ rằng: “Chẳng phải có một linh hồn tạo nên sức sống cho một thân thể và vì vậy bản thân cái thân ấy không khác gì vật vô tri hay sao?” Không có linh hồn; chỉ có các hiện tượng tinh thần và vật chất sinh rồi diệt liên tục. Chúng ta không quen phân biệt thân với tâm và phân tích chúng như chúng thực là. Tuy nhiên, điều này là rất cần thiết nếu muốn biết về thực tại.
Thân, tự bản thân nó thì không biết gì cả; ở góc độ này, nó cũng như vật chất vô tri. Nếu thấy rằng thân chỉ là tổng thể các hiện tượng vật chất sinh rồi diệt hoàn toàn, không phải là “ta”, và tâm là một chuỗi các hiện tượng tinh thần sinh rồi diệt và không phải là “ta”, bức màn vô minh sẽ được vén khỏi mắt chúng ta.
Nếu cố gắng phát triển hiểu biết này, chúng ta có thể tự thấy được kết quả sẽ là gì. Chúng ta có thể tìm ra liệu hiểu biết này có giúp mình giải thoát khỏi các dính mắc hay không. Dính mắc mang đến đau khổ.
Đức Phật đã dạy mọi người thấy mọi thứ như chúng là. Chúng ta không phải tuyệt thực hay trở thành người tu khổ hạnh. Bổn phận của chúng ta là chăm sóc và nuôi thân. Đức Phật dạy con đường “Trung đạo”: chúng ta không phải ép bản thân đi theo những phương pháp thực hành khó khăn, nhưng mặt khác, chúng ta nên học dần xả ly khỏi những thứ trong và xung quanh chúng ta thông qua chánh kiến. Chỉ có trí tuệ, thấy mọi thứ như chúng là, mới là con đường “Trung đạo”.
Câu hỏi: Như vậy, thấy mọi thứ như chúng là chính là thực hành Vipassanā, tuệ minh sát. Hầu hết mọi người đều nghĩ rằng đó là một phương pháp hành thiền phức tạp chỉ có thể được học trong trường thiền. Đó là lý do tại sao hầu hết mọi người thậm chí cũng không dám thử. Nhưng cuộc trao đổi này cho thấy, Vipassanā là thấy mọi thứ trong cuộc sống hàng ngày như chúng là. Bà có nghĩ rằng chúng ta cần có nhiều kiến thức lý thuyết trước khi thực hành Vipassanā?
Nina: Từ “thiền” làm nhiều người sợ; họ nghĩ rằng nó hẳn rất phức tạp. Nhưng trên thực tế, chúng ta không phải làm bất cứ điều gì đặc biệt. Nếu muốn phát triển Vipassanā, chúng ta cần một số kiến thức lý thuyết. Chúng ta không phải biết về mọi yếu tố vật chất (thân-sắc) và tinh thần (tâm-danh) một cách chi tiết, nhưng nên biết rằng thân được tạo bởi các yếu tố vật chất và rằng nó khác với các yếu tố tinh thần. Có nhiều loại sắc và những sắc này liên tục thay đổi. Chúng ta nên biết rằng có nhiều loại danh: một tâm (citta) sinh rồi diệt, sau đó tâm tiếp theo cũng sinh rồi diệt. Tâm sinh và diệt nối tiếp nhau, một tâm tại một thời điểm. Cái thấy là một tâm, cái nghe là một tâm khác, suy nghĩ cũng lại là một tâm khác, tất cả đều là các tâm khác nhau.
Phát triển Vipassanā không có nghĩa là phải hay biết trong từng khoảnh khắc về tất cả các yếu tố khác nhau này; điều đó là không thể. Chúng ta cũng không phải làm cái gì đó đặc biệt; chúng ta có thể tiếp tục làm mọi việc của cuộc sống hàng ngày. Chúng ta sẽ dần hiểu rằng chỉ có các hiện tượng vật chất (sắc) và hiện tượng tinh thần (danh), và bắt đầu hay biết các hiện tượng này một cách khá tự nhiên mà không cần phải ép buộc bản thân mình, bởi vì chúng luôn có ở đó, trong mọi thời điểm.
Khi hiểu rằng những hiện tượng này chỉ có thể được hay biết như chúng là bằng chánh niệm trực tiếp về chúng, chánh niệm sẽ tự sinh khởi từng chút một. Chúng ta sẽ kinh nghiệm rằng chánh niệm sẽ sinh khởi khi đủ duyên. Không có nhiều chánh niệm khi mới bắt đầu thì cũng không sao. Điều quan trọng cần hiểu rằng chánh niệm không phải là “ngã”, là “ta”, mà là hiện tượng tinh thần (danh) sinh khởi khi có đủ duyên. Chúng ta không thể ép chánh niệm sinh khởi.
Khi hiểu hơn về các hiện tượng vật chất (sắc) và hiện tượng tinh thần (danh), và khi hay biết về chúng trong cuộc sống hàng ngày, trí tuệ sẽ phát triển. Như vậy sẽ có thêm thiện pháp và giảm bớt bất thiện pháp.
Câu hỏi: Bà có thấy rằng chánh niệm theo cách này sẽ mang đến cho Bà hạnh phúc?
Nina: Khi hiểu về mọi thứ thực sự là gì sẽ có thêm thiện pháp trong cuộc sống của chúng ta, sẽ bớt đi dính mắc vào ý niệm về “ngã” khi làm việc thiện, và vì vậy việc thiện sẽ càng trong sạch hơn. Chúng ta tránh làm điều xấu không phải vì tuân theo những luật lệ nhất định mà vì có hiểu biết hơn nhân nào sẽ dẫn tới quả nào.
Hiểu đúng về mọi thứ sẽ dần dần diệt trừ bất thiện pháp. Khi bất thiện pháp giảm bớt, cuộc sống sẽ bình an hơn.
Tất cả mọi người đều nên tự mình kiểm chứng điều này!
********
Chú thích
(1) Là ngày trai giới vào rằm, mồng một, 07, 23 hàng tháng theo âm lịch. Vào ngày ấy, các phật tử xin giới và đi chùa.
(2) Những thuật ngữ này không đề cập đến các ý niệm quy ước về đất, nước, gió lửa, mà nói đến các đặc tính của thực tại