Khảo cứu Pháp chân đế – Phần V. Sự phát triển tuệ giác – CHƯƠNG 29: BA MƯƠI BẢY PHẨM TRỢ ĐẠO (CÁC NHÂN TỐ DẪN ĐẾN SỰ GIÁC NGỘ)

CHƯƠNG 29. BA MƯƠI BẢY PHẨM TRỢ ĐẠO (CÁC NHÂN TỐ DẪN ĐẾN SỰ GIÁC NGỘ)

Phiền não có thể được xếp theo các mức độ khác nhau, chúng có thể ở các mức độ tế, trung và thô.

Các phiền não thô (vītikkama kilesa)[1] là các phiền não làm duyên cho việc tạo nghiệp bất thiện qua thân và qua khẩu. Ta có thể tránh phiền não thô qua việc giữ giới.

Phiền não bậc trung (pariyuṭṭhāna kilesa)[2] sinh khởi với các tâm bất thiện chưa ở mức độ của nghiệp bất thiện. Chúng có thể được đè nén tạm thời bởi thiện tâm thiền (kusala jhānacitta) và đó gọi là đoạn trừ nhờ đè nén (vikkhambhana pahāna)[3].

Các phiền não vi tế là các phiền não ngủ ngầm (anusaya kilesa)[4]. Chừng nào các phiền não còn chưa hoàn toàn được tận diệt thì các phiền não ngủ ngầm sẽ tiềm ẩn trong các tâm sinh và diệt tiếp nối nhau. Chúng giống như những hạt mầm làm duyên cho sự sinh khởi của các phiền não bậc trung. Các phiền não sẽ không thể sinh khởi trở lại một khi chúng đã bị tận diệt hoàn toàn (samuccheda pahāna)[5]. Khi tâm đạo siêu thế chứng ngộ Tứ Thánh Đế và kinh nghiệm niết bàn, các phiền não ngủ ngầm được tận diệt tương ứng với mức độ giác ngộ đã đạt được. Chúng bị tận diệt lần lượt ở mỗi giai đoạn giác ngộ khác nhau.

Trước khi Đức Phật thành đạo, mọi người đã biết tránh xa bất thiện pháp qua việc giữ giới, và với những người có thể, qua việc phát triển samatha, và nhờ đó đè nén được các phiền não một cách tạm thời (vikkhambhana pahāna). Họ có thể vun bồi samatha đến các tầng thiền vô sắc giới cao nhất, tức là giai đoạn “phi tưởng phi phi tưởng xứ”. Tuy nhiên, không ai có thể tận diệt các phiền não ngủ ngầm (anusaya kilesa). Đức Phật, sau khi đã tích lũy Ba la mật trong bốn a tăng kỳ kiếp và một trăm ngàn đại kiếp đã chứng đắc Phật quả, trở thành một bậc Chánh đẳng giác, bậc trí tuệ vô song. Ngài đã thuyết giảng con đường cần phải theo để chứng ngộ Thánh đế.

Có rất nhiều vị đệ tử đã chứng ngộ Tứ Thánh Đế, tận diệt được phiền não và như vậy, Tăng đoàn của các bậc Thánh nhân[6] đã ra đời. Từ đó, mọi người có thể nghiên cứu và áp dụng Giáo pháp mà Đức Phật đã chứng ngộ và thuyết giảng một cách chi tiết trong vòng 45 năm. Giáo pháp mà Đức Phật đã dạy rất vi tế, phức hợp và có nghĩa lý vô cùng sâu sắc. Đức Phật đã dạy về đặc tính của tất cả các thực tại đã được xuyên thấu ở thời điểm Ngài giác ngộ. Ta cần phải nghiên cứu và thẩm xét Giáo pháp mà Đức Phật đã dạy một cách chi tiết để có được hiểu biết đúng về nó, nếu không sẽ không thể phát triển tuệ giác có thể xuyên thấu đặc tính thực sự của thực tại và tận diệt phiền não.

Ta cần phải có hiểu biết đúng về Giáo pháp ngay từ đầu để có thể phát triển được loại tuệ giác biết được các đặc tính của các thực tại như chúng là. Ngay từ đầu, cần phải biết rõ một cách chi tiết đâu là các thực tại mà tuệ giác có thể xuyên thấu, đó là tất cả những gì là thực và đang sinh khởi hiện giờ qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý môn.

Ở mỗi khoảnh khắc thấy, nghe, ngửi, nếm, kinh nghiệm đối tượng xúc chạm hay suy nghĩ, rất dễ có vô minh về bản chất của thực tại. Đức Phật thuyết giảng rất chi tiết về các pháp sinh khởi và xuất hiện hàng ngày, ở mỗi khoảnh khắc, qua ngũ môn và ý môn. Người đã dạy Giáo pháp để ta có thể thấy được khiếm khuyết của phiền não và mối hiểm họa của vòng luân hồi. Chừng nào ta còn chưa thấy được mối hiểm họa của vòng sinh tử luân hồi, sẽ không có trạng thái khẩn cấp tu niệm, không có nỗ lực để phát triện tuệ giác vipassanā. Trí tuệ (paññā) phát triển trong vipassanā thấy được các đặc tính của thực tại như chúng là khi chúng xuất hiện một cách tự nhiên trong cuộc sống hàng ngày và loại trí tuệ này có thể tận diệt được phiền não.

Sự phát triển samatha và sự phát triển vipassanā có mục tiêu khác nhau và mức độ tuệ giác trong mỗi trường hợp cũng khác nhau. Trong samatha, tâm đại thiện hợp trí suy niệm trên các đề mục cụ thể để đạt được an tịnh và để tâm có thể an trụ trên đề mục ấy. Trong vipassanā, các thực tại chân đế là đối tượng của trí tuệ. Các thực tại này là danh pháp và sắc pháp, sinh và rồi diệt đi. Tâm đại thiện hợp trí có thể nhận ra và thẩm xét về từng thực tại, lần này qua lần khác. Bằng cách ấy, trí tuệ dần phát triển để nhận ra rằng các pháp không phải là một chúng sinh, con người hay tự ngã. Quả của sự phát triển samatha là được tái sinh vào một trong các cõi Phạm thiên. Quả của sự phát triển vipassanā là tuệ giác biết được thực tại như chúng là và tận diệt phiền não. Tâm đạo siêu thế lấy niết bàn làm đối tượng và tận diệt phiền não tương ứng với mức độ giác ngộ đã đạt được. Khi đạo quả A la hán được chứng đắc, tất cả các phiền não được tận diệt hoàn toàn bởi tâm đạo và điều ấy có nghĩa rằng vòng luân hồi sinh tử đã chấm dứt, không còn tái sinh nữa.

Một người phát triển vipassanā cần phải rất chân thành với chính mình. Người ấy cần phải nhận ra rằng mình còn tất cả các loại phiền não và người ấy không nên tưởng lầm rằng tham cần phải được tận diệt trước tiên; điều ấy là không thể. Một người vẫn còn là phàm nhân không thể đốt cháy các giai đoạn phát triển tuệ giác và trở thành vị A la hán ngay lập tức. Trước hết, sự dính mắc vào tà kiến về ngã (sakkāya-diṭṭhi) cho các thực tại là một khối, là chúng sinh, là tự ngã hay là con người cần phải được tận diệt hoàn toàn. Sau đó các phiền não khác có thể được tận diệt theo từng giai đoạn. Nếu một người chưa biết rằng khi mình đang thấy, thực chất không có tự ngã nào, không có chúng sinh hay con người nào, làm sao người ấy có thể tận diệt được các phiền não như tham hay sân. Cũng như vậy đối với các cửa giác quan khác, chừng nào vẫn còn tà kiến về ngã thì phiền não sẽ không thể được tận diệt.

Mỗi thực tại sinh và diệt đi rất nhanh, nó biến mất hoàn toàn. Các thực tại luôn sinh và diệt. Đức Phật đã dạy con đường phát triển trí tuệ biết đặc tính của các thực tại như chúng là. Sự phát triển Bát Chánh Đạo là con đường duy nhất để giác ngộ chân lý. Các chi của Bát Chánh Đạo bao gồm các tâm sở sau: tâm sở trí tuệ hay Chánh kiến (paññā cetasika hay sammā-diṭṭhi), Chánh tư duy (sammā-sankappa hay vitakka cetasika), Chánh ngữ (sammāvāca cetasika), Chánh nghiệp (sammā-kammanta cetasika), Chánh mạng (sammā-ājīva cetasika), Chánh tinh tấn (sammā-vāyāma hay viriya cetasika), Chánh niệm (sammā-sati hay sati cetasika) và Chánh định (sammā-samādhi hay ekaggatā cetasika).

Ban đầu, khi tâm siêu thế chưa sinh khởi, Bát Chánh Đạo vẫn chỉ là Bát Chánh Đạo hiệp thế, không phải là siêu thế. Khi đó, thông thường chỉ có năm chi của Bát Chánh Đạo đảm nhận chức năng của chúng cùng nhau, có nghĩa là tâm không sinh kèm với ba tâm sở tiết chế là Chánh nghiệp, Chánh ngữ và Chánh mạng. Khi có cơ hội trì giới, sẽ chỉ có một tâm sở tiết chế sinh khởi ở một thời điểm. Chỉ ở khoảnh khắc của tâm siêu thế mới có ba tâm sở tiết chế sinh khởi cùng nhau. Ngũ chánh đạo, tức là trừ ba tâm sở tiết chế ra, cùng đảm nhận chức năng riêng của chúng khi có chánh niệm về đặc tính của danh và sắc xuất hiện qua một trong sáu căn. Tâm sở trí tuệ sinh khởi cùng chánh niệm dần dần có thể suy xét và thẩm định đặc tính của danh và sắc. Tuệ giác cần phải suy xét đặc tính của các thực tại một cách thường xuyên, lần này qua lần khác, để có thể hiểu biết rõ ràng liệu đó là danh hay sắc đang xuất hiện.

Các thực tại xuất hiện qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý môn, có thể được xếp thành Tứ niệm xứ, bao gồm như sau:

  • Niệm thân, kāyanupassanā[7] satipaṭṭhāna. Khi chánh niệm (sati) sinh khởi và hay biết đặc tính của sắc trên thân, khi ấy có niệm thân.
  • Niệm thọ, vedanānupassanā satipaṭṭhāna. Khi chánh niệm (sati) sinh khởi và hay biết đặc tính của thọ xuất hiện, khi ấy có niệm thọ.
  • Niệm tâm, cittānupassanā satipaṭṭhāna. Khi chánh niệm (sati) sinh khởi và hay biết đặc tính của một trong các loại tâm khác nhau, khi ấy có niệm tâm.
  • Niệm pháp, dhammānupassanā satipaṭṭhāna. Niệm xứ này bao gồm các thực tại được xếp theo những khía cạnh khác nằm ngoài ba niệm xứ trên[8]. Khi chánh niệm (sati) sinh khởi và hay biết về một pháp nằm trong niệm xứ này, khi ấy có niệm pháp.

Từ “satipaṭṭhāna” (tứ niệm xứ) có ba nghĩa:

  1. Là những đối tượng mà chánh niệm hay biết, tức là một pháp chân đế, hoặc là danh pháp hoặc là sắc pháp. Những thực tại ấy được phân thành bốn niệm xứ.
  2. Tâm sở chánh niệm (sati cetasika) sinh khởi cùng với tâm dục giới hợp trí (ñāna-sampayutta) hay biết các đối tượng của chánh niệm, tức là bốn niệm xứ.
  3. Con đường mà bậc Chánh đẳng giác và các vị Thánh đệ tử đã phát triển.

Sự phát triển của con đường Bát thánh đạo thực chất là sự phát triển của tứ niệm xứ. Đó là sự phát triển của chánh niệm và chánh kiến về các đặc tính của thực tại khi chúng sinh khởi từng thứ một trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta qua ngũ môn và ý môn. Chánh niệm không sinh khởi dễ dàng và lúc ban đầu sẽ không thể thường xuyên. Lý do là bởi vô minh, dính mắc và tất cả các pháp bất thiện khác đã được tích lũy trong một khoảng thời gian vô cùng tận trong vòng luân hồi sinh tử. Và cũng vậy, trong kiếp sống này, từ khi chúng ta sinh các phiền não đã được tích lũy hàng ngày. Người hiểu đúng đắn nhân và quả của các thực tại biết rằng mình cần rất nhiều kham nhẫn và bền bỉ để nghe Pháp, nghiên cứu Pháp một cách kỹ lưỡng và suy xét về nó. Chỉ khi ấy, ta mới có thể hiểu đúng các đặc tính của thực tại xuất hiện qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý môn.

Nhờ việc nghe và suy xét, các nhân duyên thích hợp được tích lũy cho sự sinh khởi của tứ niệm xứ, của chánh niệm và sự suy xét về đặc tính của các thực tại đang xuất hiện. Bằng cách ấy, các thực tại có thể được biết như chúng là. Thông qua sự hay biết về các thực tại, ta sẽ trực nhận được sự thật giống như những gì ta đã nghe và hiểu về mặt tư duy rằng tất cả các pháp, kể cả chánh niệm của tứ niệm xứ và các chi của Bát Chánh Đạo, đều là vô ngã. Chánh niệm của tứ niệm xứ có thể sinh khởi khi có các duyên đầy đủ, tức là khi các tâm đại thiện hợp trí sinh khởi đi sinh khởi lại và nhờ vậy tuệ giác được tích lũy. Khi đó, mọi người không còn đi xa khỏi chánh đạo nữa. Họ sẽ không đi theo sự thực hành nào khác ngoài sự hay biết, ghi nhận và suy xét các danh pháp và sắc pháp qua sáu cửa giác quan.

Người phát triển tuệ giác chân thực với sự phát triển của mình. Khi tứ niệm xứ sinh khởi, người ấy biết rằng khoảnh khắc ấy khác với khoảnh khắc của sự thất niệm về thực tại. Khi tứ niệm xứ mới sinh khởi, không thể có ngay hiểu biết rõ ràng về đặc tính của danh và sắc. Trí tuệ chỉ phát triển một cách rất từ từ.

Khi chánh niệm của tứ niệm xứ nhận biết và suy xét các đặc tính của danh và sắc xuất hiện, cũng có chánh tinh tấn sinh khởi cùng chánh niệm. Chánh tinh tấn (sammāppadhāna) có thể được xếp vào bốn loại: tinh tấn để tránh (saṁvara-padhāna), tinh tấn để vượt qua (pahāna-padhāna), tinh tấn để phát triển (bhāvanā-padhāna), tinh tấn để duy trì (anurakkhaṇa-padhāna). Bốn loại chánh tinh tấn này được giải thích như sau:

  • Saṁvara-padhāna là tinh tấn để tránh pháp bất thiện chưa sinh khởi.
  • Pahāna-padhāna là tinh tấn để vượt qua hay loại bỏ các pháp bất thiện đã sinh khởi.
  • Bhāvanā-padhāna  là tinh tấn phát triển các thiện pháp vẫn chưa sinh khởi.
  • Anurakkhaṇa-padhāna là tinh tấn để duy trì các thiện pháp đã sinh khởi để chúng có thể trở nên hoàn mãn.

Tứ chánh cần này là cơ sở, nền tảng cho sự thành công, nhưng cần phải có các pháp tịnh hảo khác để có thể đạt được mục tiêu và trong số đó có Tứ như ý túc (iddhi-pāda)[9] bao gồm như sau:

  • Dục như ý túc, đó là tâm sở dục chanda cetasika. Chanda mong muốn suy xét và hay biết về các đặc tính của danh và sắc để chúng có thể được biết như chúng là. Chanda được so sánh như là một người đầy tớ hoàng gia rất cần mẫn phục vụ đức vua. Cũng như vậy, chanda là cơ sở của thành công, để đạt tới kết quả cần thiết[10].
  • Tinh tấn như ý túc, đó là tâm sở tinh tấn (viriya), là sự tinh tấn để ghi nhận và suy xét các đặc tính của danh và sắc đang xuất hiện. Quả đúng có thể đạt được hay không phụ thuộc vào sự tinh tấn. Tinh tấn có thể được so sánh với một người phụ cận hoàng gia hỗ trợ đức vua bằng sự dũng cảm để hoàn thành nhiệm vụ của mình.
  • Tâm như ý túc, Quả đúng có thể đạt được qua tâm. Tâm được so sánh với người hầu cận hoàng gia hỗ trợ cho đức vua hoàn thành đúng đắn và tốt đẹp nhiệm vụ của mình nhờ có những phẩm chất tốt đẹp tự nhiên.
  • Trí như ý túc (trạch pháp-vīmaṃsā), đó chính là tâm sở trí tuệ suy xét một cách cẩn thận và thẩm định các đặc tính của thực tại. Quả đúng có thể đạt được nhờ trí tuệ. Trạch pháp được so sánh như người hầu hoàng gia hỗ trợ cho đức vua bằng trí tuệ của mình.

Mỗi người hầu hoàng gia này, bằng khả năng tự nhiên của mình, mang tới sự hỗ trợ đáng tin cậy để đạt được mục tiêu. Như vậy, tứ chánh cần là sự hỗ trợ đáng tin cậy để đạt được kết quả đúng.

T chánh cn phụ thuộc vào ngũ căn để có thể đảm nhận được chức năng của mình. Các căn này cũng phải được phát triển để có chức năng dẫn dắt trong việc phát triển con đường chánh Đạo. Ngũ căn bao gồm những yếu tố sau:

  • Tín căn, là tâm sở tín, saddhā cetasika. Đây là yếu tố dẫn dắt, khi có niềm tin vào chánh niệm về đặc tính của các thực tại đang sinh khởi.
  • Tấn căn, là tâm sở tinh tấn, viriya cetasika. Đây là yếu tố dẫn dắt, khi có sự tinh tấn và can đảm để giúp ta không lười nhác và chán nản về chánh niệm hiện giờ. Đó là tinh tấn để có chánh niệm về đặc tính của các thực tại đang sinh khởi.
  • Niệm căn, là tâm sở niệm, sati cetasika. Đây là yếu tố dẫn dắt ngăn ngừa sự lơ là, là chánh niệm hay biết đặc tính của các thực tại đang xuất hiện.
  • Định căn, samādhi, là tâm sở nhất tâm, ekaggatā cetasika. Đây là yếu tố dẫn dắt trong việc tập trung vào đối tượng đang xuất hiện.
  • Tuệ căn, là tâm sở tuệ, paññā cetasika. Đây là yếu tố dẫn dắt trong việc suy xét một cách kỹ lưỡng, thẩm định và nghiên cứu đặc tính của các thực tại đang xuất hiện.

Khi ngũ căn đã được phát triển, chúng trở nên mạnh mẽ và không thể lay chuyển. Chúng không chao đảo đối với nhiệm vụ suy xét bất cứ đối tượng nào xuất hiện. Khi ấy chúng có thể trở thành lực (bala). Ngũ lực bao gồm những yếu tố sau:

  • Tín lực (saddhā), không thể bị chao đảo bởi sự thiếu tín tâm.
  • Tấn lực (viriya), không thể bị chao đảo bởi sự chán nản.
  • Niệm lực (sati), không thể bị chao đảo bởi sự thất niệm về thực tại đang xuất hiện.
  • Định lực (samādhi), không thể bị chao đảo bởi sự xao nhãng với đối tượng đang xuất hiện.
  • Tuệ lực (paññā), không thể bị chao đảo bởi vô minh.

Tín, tấn, niệm và định có thể trở nên mạnh mẽ khi tuệ giác đã trở thành lực. Khi tuệ giác đã hiểu thấu đáo các đặc tính của danh và sắc, nó trở nên không thể chao đảo hay lay chuyển. Khi cái thấy xuất hiện, tuệ giác có thể trực nhận được đặc tính của nó chỉ là danh, là một thực tại, là một yếu tố kinh nghiệm. Cũng như vậy đối với nghe, ngửi, nếm, kinh nghiệm đối tượng xúc chạm và suy nghĩ. Chúng được nhận biết chỉ là danh.

Khi trí tuệ sinh kèm với chánh niệm suy xét các đặc tính của danh và sắc lần này qua lần khác, nó càng trở nên viên mãn hơn và các tầng tuệ minh sát (vipassanā ñāṇa) có thể được liễu ngộ, khi ấy trí tuệ sẽ sinh khởi cùng bảy yếu tố của giác ngộ hay Thất Bồ Đề Phần (bojjhanga). Những yếu tố này dẫn đến sự chứng ngộ Tứ Thánh Đế, bao gồm như sau:

  1. Niệm bồ đề phần: tâm sở niệm (sati cetasika).
  2. Trạch pháp bồ đề phần: tâm sở trí tuệ (paññā cetasika)
  3. Tấn bồ đề phần: tâm sở tinh tấn (viriya cetasika)
  4. Hỷ bồ đề phần: tâm sở phỉ (pīti cetasika)
  5. Khinh an bồ đề phần: tâm sở khinh an (passaddhi), bao gồm các tâm sở an tịnh thân (kāya-passaddhi) và an tịnh tâm (citta-passaddhi).
  6. Định bồ đề phần: định hay tâm sở nhất tâm (ekaggatā cetasika).
  7. Xả bồ đề phần: xả (upekkhā) hay tâm sở quân bình (tatramajjhattatā cetasika).

Khi tuệ giác đã trở nên viên mãn đến mức độ có thể chứng ngộ Tứ Thánh Đế, nó sẽ sinh kèm với bẩy yếu tố giác ngộ này. Trí tuệ đạt đến độ hoàn mãn bởi ba mươi bảy phẩm trợ đạo (bodhipakkhiya dhamma). Đó là:

  • Tứ niệm xứ,
  • Tứ chánh cần,
  • Tứ như ý túc,
  • Ngũ căn,
  • Ngũ lực,
  • Thất Bồ Đề Phần và
  • Bát Chánh Đạo[11].

Tâm siêu thế sinh khởi với đầy đủ tám chi của Bát Chánh Đạo, bao gồm các tâm sở sau:

  • Chánh kiến (sammā-diṭṭhi),
  • Chánh tư duy (sammā-sankappa),
  • Chánh ngữ (sammā-vāca),
  • Chánh nghiệp (sammā-kammanta),
  • Chánh mạng (sammā-ājīva),
  • Chánh tinh tấn (sammā-vāyāma),
  • Chánh niệm (sammā-sati),
  • Chánh định (sammā-samādhi).

Tâm siêu thế sinh kèm với tất cả các pháp trợ đạo (bodhipakkhiya dhamma) ở khoảnh khắc giác ngộ và niết bàn được kinh nghiệm, trong lộ trình ý môn. Lộ trình ấy diễn ra như sau:

  • Tâm hộ kiếp (bhavanga-citta), là tâm quả hợp trí (vipākacitta ñāna-sampayutta)[12]
  • Tâm hộ kiếp rung động (bhavanga calana), là tâm quả hợp trí
  • Tâm hộ kiếp dứt dòng (bhavangupaccheda), là tâm quả hợp trí
  • Ngũ môn hướng tâm (manodvārāvajjana-citta), là tâm duy tác (kiriyacitta)
  • Chuẩn bị (parikamma), là tâm đại thiện hợp trí (mahā-kusala ñāna-sampayutta)
  • Cận định (upacāra), là tâm đại thiện hợp trí, cùng loại tâm với parikamma
  • Thuận thứ (anuloma), là tâm đại thiện hợp trí, cùng loại tâm với parikamma
  • Chuyển tánh (Gotrabhū)[13], là tâm đại thiện hợp trí, cùng loại tâm với Parikamma.
  • Tâm đạo dự lưu (sotāpatti magga-citta), là tâm siêu thế
  • Tâm quả dự lưu (sotāpatti phala-citta), là tâm siêu thế
  • Tâm quả dự lưu (sotāpatti phala-citta), là tâm siêu thế
  • Tâm hộ kiếp (bhavanga-citta), là tâm quả hợp trí

Trong trường hợp của tầng thiền siêu thế (lokuttara jhāna)[14], tâm thiền siêu thế được sinh kèm bởi các thiền chi của tầng thiền đã đắc ngay trước thời điểm giác ngộ. Như vậy, nếu tâm thiền siêu thế sinh kèm với các thiền chi của nhị thiền thì tâm sở tầm (vitakka) hay chánh tư duy (sammāsankappa) sẽ không sinh khởi.[15] Nếu tâm thiền siêu thế sinh kèm với các thiền chi của tam thiền thì tâm sở tứ (vicāra cetasika) sẽ không sinh khởi. Nếu tâm thiền siêu thế sinh kèm với các thiền chi của tứ thiền thì tâm sở phỷ (pīti cetasika) sẽ không sinh khởi. Nếu có tâm thiền siêu thế sinh kèm với các thiền chi của ngũ thiền thì sẽ có thọ xả (upekkhā vedanā) thay cho thọ hỷ (somanassa vedanā).

Một người có tuệ bén (tikkha puggala) và chứng ngộ Tứ Thánh Đế một cách nhanh chóng không cần đến tâm chuẩn bị (parikamma) trong lộ trình tâm đạo sinh khởi. Như vậy trong lộ trình ấy sẽ có tâm cận định (upacāra), tâm thuận thứ (anuloma), tâm chuyển tánh (gotrabhū), tâm đạo (magga-citta) và có ba tâm quả chứ không phải là hai[16].

Khi các tâm đạo lộ (magga-vīthi-citta) đã diệt đi, sẽ có các tâm hộ kiếp sinh và diệt và rồi sau đó có các lộ trình của tâm xem xét lại (pacca-vekkhaṇa vīthi – lộ trình hồi quán) sự giác ngộ đã đạt được. Có năm lộ trình hồi quán khác nhau và trong mỗi lộ trình, tâm sẽ hồi quán tâm quả, tâm đạo, niết bàn các phiền não đã được tận diệt và các phiền não vẫn còn chưa được tận diệt.

Khi tâm đạo lộ của các giai đoạn giác ngộ khác nhau đã diệt đi, lộ trình hồi quán luôn phải tiếp nối. Như vậy, các vị Thánh nhân sẽ không nhầm lẫn về mức độ giác ngộ của mình. Một vị Dự lưu sẽ không tưởng lầm rằng mình là một vị Tư đà hàm và cũng như vậy với các vị Tư đà hàm, Tư đà hoàn hay A la hán.

Ở các tầng giác ngộ cao hơn Tu đà hoàn, trong lộ trình giác ngộ, thay cho tâm “chuyển tánh” sẽ là tâm “thanh tịnh hóa” (vodāna). Lý do là bởi một vị đắc tầng thánh cao hơn không còn là một phàm phu nữa.



[1] Vītikkama có nghĩa là “phạm” và kilesa có nghĩa là “phiền não”.

[2] Pariyuṭṭhāna tới từ “pariyutthati” có nghĩa là “sinh khởi, xâm chiếm”.

[3] Vikkhambhana có nghĩa là “đè nén”, và pahāna có nghĩa là “từ bỏ, đoạn trừ”.

[4] Anusayati có nghĩa là “ngủ ngầm”.

[5] Samuccheda có nghĩa là “dập tắt, hủy diệt”.

[6] Sangha là tăng đoàn – cộng đồng các bậc xuất gia, và Ariya Sangha (Tăng đoàn của các bậc Thánh nhân) bao gồm tất cả những người đã giác ngộ, cả tại gia và xuất gia).

[7] Anupassanā có nghĩa là “suy xét, quán chiếu”. Từ này tới từ từ “passati”, có nghĩa là “thấy, hiểu”.

[8] Danh và sắc, nằm trong bốn niệm xứ, được phân chia theo nhiều khía cạnh khác nhau, chẳng hạn như “triền cái”, ngũ uẩn, và các xứ.

[9] Iddhi có nghĩa là “quyền lực” hoặc “thành công”, và “pāda có nghĩa là “chân” hay “bước đi”. Tứ như ý túc (Iddhi – pāda) trong vipassanā là cơ sở để đạt tới giác ngộ. Chúng nằm trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo.

[10] Xem thêm Xua Tan Si Ám (Sammohavinodanī), chú giải của Bộ Phân Tích (Quyển II, chương 9), trong phần về Iddhipāda.

[11] Trong cách phân chia của ba mươi bảy phẩm trợ đạo, một số tâm sở xuất hiện vài lần, nhưng được xếp theo các khía cạnh khác nhau và cường độ khác nhau. Điều này chỉ ra rằng cần phát triển nhiều phẩm chất để có thể có đủ duyên cho giác ngộ.

[12] Người giác ngộ phải được sinh ra với thức tái tục đi kèm với trí, và vì vậy, tất cả các tâm hộ kiếp sẽ đều cùng một loại, là tâm quả hợp trí.

[13] Nó vượt qua cõi dục giới để có thể chuyển sang cõi của tâm siêu thế.

[14] Trong trường hợp của những người phát triển cả samatha và vipassanā. Xem thêm Phụ lục I: Tâm.

[15] Tham khảo phần về sự phát triển samatha.

[16] Như vậy tổng cộng có bảy tốc hành tâm.

Comments are closed.

Translate »