Tuyển Tập Pháp Đàm với Achaan Sujin 2013-2016 – Tập I – Chương II: Pháp- Pháp chân đế – Vi diệu pháp

Chương II: Pháp – Pháp chân đế – Vi diệu pháp

Pháp đàm tại Hội An, sáng ngày 21/05/2014

Achaan Sujin: Pháp là gì? Trước khi hiểu được vi diệu pháp trong cuộc sống hằng ngày, phải hiểu rõ pháp (dhamma) là gì.

Người hỏi: Pháp là những thực tại sinh khởi do duyên và nó là vô ngã.

Achaan Sujin: Tôi chưa biết các thực tại do duyên là gì cả, mà trước hết tôi phải học để biết từng thứ một, rồi sau đó mới biết nó do duyên gì tạo nên. Vì vậy chúng ta không thể nói đến vi diệu pháp khi chưa hiểu cặn kẽ, tường tận pháp là gì. Đó là tất cả những gì là thực đang xuất hiện hiện giờ. Vậy pháp là những gì là thật ở khoảnh khắc hiện tại. Cái gì là thật hiện giờ?

Người hỏi: Vẫn là đối tượng thị giác.

Achaan Sujin: Tại sao bạn nói đối tượng thị giác là thật?

Người hỏi: Vì bây giờ nó đang sinh khởi.

Achaan Sujin: Đối tượng thị giác xuất hiện là đối tượng của cái gì?

Người hỏi: Của cái thấy ạ.

Achaan Sujin: Bạn có thể biến cái thấy thành cái nghe được không?

Người hỏi: Không ạ.

Achaan Sujin: Bạn có thể biến đối tượng thị giác thành âm thanh không?

Người hỏi: Không ạ.

Achaan Sujin: Vậy pháp là một thực tại có đặc tính riêng biệt mà không ai có thể thay đổi được. Thấy là thấy, nghe là nghe. Liệu bạn có thể làm gì để biến tham thành vô tham không?

Người hỏi: Không ạ. Con không thể làm gì được.

Achaan Sujin: Nếu pháp không sinh khởi, liệu bạn có biết được là đang có pháp không?

Người hỏi: Không thể ạ.

Achaan Sujin: Vậy bất cứ cái gì xuất hiện phải có duyên cho nó xuất hiện. Nếu không có duyên, nó không thể xuất hiện, đúng không?

Người hỏi: Đúng ạ.

Achaan Sujin: Mỗi Pháp là một thực tại, có đặc tính riêng biệt mà không ai có thể thay đổi. Vì lý do đó, chúng ta gọi những thực tại đó là thực tại tối hậu, tiếng Pāli là “parāmaṭṭha-dhamma”, hay còn gọi là pháp chân đế. Bạn đã từng nghe thuật ngữ đó rồi đúng không? Vậy bây giờ khi nói về cái ly, liệu đó có phải là pháp chân đế không?

Người hỏi: Không ạ.

Achaan Sujin: Bất cứ khi nào bạn xúc chạm vào cái gì đó, cái bàn, cái ly hay bất cứ thứ gì khác thì cái thực sự xuất hiện chỉ là cứng, mềm, nóng, lạnh và đó chính là pháp chân đế. Dù ta có cho rằng mình đang chạm vào một cái bàn hay cái ly, nhưng về mặt bản chất, chỉ có cái cứng, mềm, nóng, lạnh mới được xúc chạm mà thôi. Vậy tính cứng là pháp chân đế đúng không?

Cũng tương tự với cái thấy, ở khoảnh khắc của cái thấy, cái được thấy (hay đối tượng thị giác) chỉ có tính chất được thấy mà thôi. Việc có ý niệm thấy một cái gì đó cũng tương tự ý niệm cho rằng mình chạm vào một cái gì đó, trong khi cái thấy chỉ thấy đối tượng thị giác, còn xúc chạm thì chỉ chạm vào nóng-lạnh, cứng-mềm…

Bây giờ bạn đã hiểu thêm một chút về pháp chân đế đúng không? Nếu không có pháp, không có pháp chân đế thì không có thế giới, không có gì xuất hiện cả. Đức Phật đã kinh nghiệm trực tiếp các thực tại mà Ngài đã thuyết giảng, rằng chúng là các pháp sinh và diệt, đúng không? Hay chúng ta cho rằng, những gì Đức Phật dạy chỉ tới từ sự tư duy, suy nghĩ, chứ không phải từ kinh nghiệm trực tiếp về những thực tại đó? Rất khó trực nhận được đặc tính của cái được thấy hiện giờ và chỉ kinh nghiệm cái được thấy mà thôi. Vì các pháp đều vô cùng vi tế và rất khó liễu ngộ. Vì thế ta dùng đến từ vi diệu – Vi Diệu Pháp. Như vậy vi diệu pháp cũng là pháp và là pháp chân đế. Mỗi pháp là pháp chân đế, và là vi diệu pháp.

Pháp đàm tại Huế, chiều ngày 23/05/2014

Người hỏi: Con xin hỏi một số khái niệm mà mọi người đã bàn, có rất nhiều khái niệm con không hiểu. Vô minh là gì? Ngã là gì? Vô ngã là gì?

Sarah: Hiện giờ cái gì được kinh nghiệm, khi có sự xúc chạm?

Người hỏi: Chạm vào chai nước.

Sarah: Việc cho rằng đây là tôi đang chạm vào cái chai, đó chính là ý niệm về ngã, cho đó là một cái gì đó. Vì trên thực tế, cái được chạm thực sự ở khoảnh khắc sự xúc chạm xảy ra chỉ là cảm giác cứng hay cảm giác lạnh, còn ý niệm cho rằng đây là một “cái gì đó” được chạm vào hay “tôi” là người chạm vào cái chai chính là ngã kiến.

Vậy ở ngay khoảnh khắc của sự xúc chạm, cái gì được kinh nghiệm qua thân?

Người hỏi: Cái gì đó trơn trơn. Nhấc lên thấy nặng nặng.

Sarah: Ở khoảnh khắc có sự xúc chạm, như bạn vừa nói, đó là cảm giác trơn trơn. Ngay sau khi vừa có sự xúc chạm trơn trơn thì xuất hiện ý niệm “tôi đang chạm vào cái chai” hay “đây là cái chai”. Đó là hai khoảnh khắc khác nhau. Khoảnh khắc đầu tiên chỉ là cái kinh nghiệm về trạng thái trơn trơn, mát mát, còn khoảnh khắc sau là suy nghĩ về nó và gọi đây là cái chai. Khi có hiểu biết rằng cái được chạm chỉ là trạng thái trơn trơn, mát mát chứ không phải cái chai, thì khi ấy có hiểu biết đúng về thực tại. Nếu không có hiểu biết như vậy mà cho rằng đây thực sự là cái chai, tôi chạm vàocáichai,…là khi ấy có ý niệm về ngã. Sở dĩ như thế là do vô minh không hiểu được bản chất của nó. Cảm giác trơn trơn và mát mát là thực, nhưng cái gọi là cái chai chỉ là ý niệm mà tâm nghĩ về mà thôi.

Người hỏi: Nói đây là chai nước thì không phải tự nhiên, nếu không được dạy đây là chai nước thì không biết được là chai nước. Ngoài việc chạm vào và cảm thấy như thế này, thì còn một cái nữa là được dạy.

Sarah: Đức Phật dạy về hai thế giới: (1) Theo thế giới chế định, đó là chai nước, điều đó là đúng ở góc độ chế định. Tất cả mọi người đều quy ước, gọi đây là chai nước để có thể hiểu nhau. Chúng ta không cần phải nghe Giáo lý của Đức Phật để biết đây là chai nước. Nhưng Đức Phật cũng dạy về (2) thế giới của những thực tại tối hậu. Theo nghĩa tối hậu, cái được xúc chạm chỉ có nóng – lạnh, cứng – mềm, chuyển động hay co giãn, không có chai nước, chai nước không phải là thứ được xúc chạm.

Vậy một mặt chúng ta vẫn sống trong thế giới chế định, tiếp tục nói về chai nước, mặt khác, chúng ta bắt đầu học về bản chất thực của cuộc sống, để hiểu ở khoảnh khắc của thấy, nghe… là có các thực tại nào, cái gì được kinh nghiệm…

Người phiên dịch: Cô ấy muốn hỏi rằng, đối với một đứa trẻ chưa biết gì về các khái niệm thì kinh nghiệm của nó [về thế giới] như thế nào?

Jonothan: Dù chưa biết tên của cái được kinh nghiệm nhưng khi kinh nghiệm một cái gì đó, vẫn có ý niệm về một “cái gì đó” được xúc chạm hay được thấy. Cái mà ta gọi là ý niệm về ngã xảy ra khi có ý niệm về một “cái gì đó”, chứ chưa cần đến lúc định danh nó là “cái chai” hay “bông hoa”…

Người hỏi: Con xin hỏi ngắn gọn, ngã là gì?

Achaan Sujin: Hãy nói cái gì là thật và cái gì không là thật. Hiện giờ cái thấy là thật không?

Người hỏi: Là thật. Như con thấy bà, con thấy mọi người ở đây.

Achaan Sujin: Bây giờ chỉ nói về tính chất thấy thôi. Đang có sự thấy xảy ra, đây là sự thật, đúng không? Trên thực tế, cái gì được thấy? Nó là thực bởi vì hiện giờ nó đang thấy. Và cái thấy đó hoàn toàn không phải là cái được thấy, đúng không?

Người hỏi: Con chưa được rõ khái niệm cái thấy và cái được thấy.

Achaan Sujin: Hãy chỉ nói về từng thực tại một để có thể thực sự hiểu sự khác biệt giữa những thực tại đó.

Cái thấy có sinh khởi không, hay nó luôn có đó?

Người hỏi: Khi nào mình thấy thì nó có.

Người phiên dịch: Ở khoảnh khắc của cái thấy thì cái thấy mới sinh khởi. Tức là nó có sinh khởi, đúng không ạ?

Achaan Sujin: Cái được thấy cũng là cái sinh khởi, đúng không?

Người hỏi: Cái được thấy có sẵn ở đó, dù không có mình nhìn, nó vẫn ở đó.

Achaan Sujin: Liệu có thể có cái thấy mà không có cái được thấy không? Nếu nó không sinh khởi, làm sao nó có ở đó được? Nếu không có cái gì sinh khởi, sẽ không có thế giới, đúng không?

Người hỏi: Không có suy nghĩ cũng không có cái gì cả.

Achaan Sujin: Giờ chúng ta vẫn chưa nói về suy nghĩ, mới đang nói về cái thấy thôi. Bất cứ cái gì xuất hiện phải có duyên cho nó sinh khởi, mặc dù ta chưa biết gì về các duyên cho sự sinh khởi đó là gì, kể cả cái thấy hoặc cái được thấy. Cái không biết cái gì là thực chính là thực tại không hiểu gì cả. Nếu không có những lời của Đức Phật, liệu chúng ta có thể biết cái thấy đã sinh khởi không? Ở khoảnh khắc của cái nghe thì không còn cái thấy nữa. Cái thấy đi đâu rồi? Cái thấy vừa có trước khi cái nghe sinh khởi, vậy ở khoảnh khắc của cái nghe, cái thấy chạy đâu rồi?

Người hỏi: Con thực sự không hiểu những gì đang nói đến.

Achaan Sujin: Khoảnh khắc của cái nghe không phải khoảnh khắc của cái thấy, đúng không? Thấy và nghe không thể xảy ra cùng lúc, phải không? Chúng không thể sinh khởi cùng nhau vì những duyên, điều kiện cho chúng sinh khởi khác nhau. Nếu không có mắt thì không thể có cái thấy; nếu không có tai thì không thể có cái nghe. Đó là những thứ khác nhau. Ở khoảnh khắc cái thấy sinh khởi để thấy, khi đó, cái thấy có phải là bạn không? Hay đó chỉ là thực tại sinh khởi để thấy và rồi diệt đi ngay?

Người hỏi: Con không chắc ạ. Con chỉ mới nghe lời dạy của Bà.

Achaan Sujin: Đây không phải là lời dạy của tôi, mà là lời dạy chi tiết về các thực tại của chính Đức Phật.

Sarah: Suy xét rằng chính cái thấy thấy chứ không phải tôi thấy là bắt đầu cho sự suy xét về tính chất vô ngã (anatta), rằng không phải là một ai đó đang thấy khi ấy. Vì thông thường, ta cho rằng chính mình đang thấy, đó là ngã kiến. Đây chính là ý nghĩa của ngã (atta) và vô ngã (anatta). Cũng như thông thường, ta nghĩ rằng cái được chạm vào là cái chai (atta), nhưng thực chất đó chỉ là đặc tính cứng, đặc tính mát (anatta). Nhưng điểm này rất vi tế.

Jonothan: Những thuật ngữ bạn hỏi sẽ không thể nào được hiểu nếu không bắt đầu hiểu pháp là gì, thực tại là gì. Trước hết, chúng ta phải hiểu pháp là gì. Vì vậy Achaan mới nói về cái thấy và đối tượng thị giác, đó là những ví dụ của cái mà ta gọi là pháp. Chúng ta không thể ngay lập tức nhảy vào hiểu về vô ngã khi chưa hiểu pháp là gì. Pháp là những gì đang xuất hiện hiện giờ, nó là thực. Đó chính là những gì chúng ta đang thảo luận trong cuộc nói chuyện này.

Người phiên dịch: Pháp là những gì là thực, như thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm… Vậy ngày mai chúng ta lại tiếp tục chủ đề thú vị này. Vì đó là những câu hỏi rất quan trọng. Việc hỏi và trả lời như vậy sẽ hữu ích với tất cả mọi người.

Pháp đàm tại Huế, sáng ngày 24/05/2014

Câu hỏi trực tuyến: Trong những ngày qua, tất cả các chủ đề thảo luận như “thấy”, “vô ngã”, “tà kiến” đều có thể tìm thấy trong Tam Tạng kinh điển. Dường như Bà không tập trung đến những chi tiết kỹ thuật về Vi Diệu Pháp, có phải vì Vi Diệu Pháp là một phương pháp phân loại pháp khác và nó không phải là kiến thức thiết yếu cho giải thoát hay không? Đó là lý do mà Đức Phật không giảng Vi Diệu Pháp cho Tăng đoàn nói chung?

Jonothan: Kinh và Vi Diệu Pháp đều là hai phần thuộc Giáo lý của Đức Phật. Các nội dung này đều được kết tập bởi Tăng đoàn gồm các vị A la hán sau khi Đức Phật nhập diệt. Về mặt bản chất, những gì Đức Phật dạy trong Kinh cũng là một với những gì Đức Phật dạy trong Vi diệu pháp. Như vậy ta không cần phân biệt cái này là Kinh và cái kia là Vi Diệu Pháp. Chẳng hạn, những khái niệm về uẩn, xứ, giới… đều là những khái niệm có thể thấy trong cả Tạng Kinh và Tạng Vi Diệu Pháp. Sẽ không ích lợi gì khi coi chúng là hai loại Giáo lý riêng rẽ. Mỗi khi Đức Phật giảng Pháp, Ngài giảng những gì là cần thiết cho hội chúng đang thính Pháp. Mức độ chi tiết cặn kẽ về Giáo lý mà Đức Phật giảng cho hội chúng trong các bài Kinh là tương ứng với những gì họ cần nghe khi đó. Những chi tiết rất tỉ mỉ trong Tạng Vi Diệu Pháp mà chúng ta đọc ngày nay không cần thiết đối với những đệ tử có mức độ trí tuệ cao. Có lẽ vì khi đó, họ đã tích lũy một mức độ trí tuệ rất cao, sẵn sàng cho sự giác ngộ. Điều chúng ta cần nhớ rằng, dù Đức Phật giảng gì đi nữa thì luôn về những gì là thật trong khoảnh khắc hiện tại, luôn về bản chất của thực tại.

Sarah: Về việc chúng ta không đi vào quá nhiều chi tiết hay những con số thống kê là vì tất cả những gì chúng ta nói đều là về các giới (dhātu), chẳng hạn cái thấy là giới, cái được thấy cũng là giới. Nhưng chúng ta không nhất thiết phải dùng đến những thuật ngữ đặc biệt như “giới” hay sử dụng những con số. Điều quan trọng ở đây là cái hiểu về những gì đang xuất hiện hiện giờ, rằng đó không phải là ai mà là vô ngã. Chừng nào còn những ý niệm như “liệu tôi có nên đi đến nơi khác để thực hành”, hay “liệu tôi có phải đi gặp bác sỹ không”,… thì chừng đó không có ý nghĩa gì khi ta đi quá sâu vào chi tiết, vì điểm căn bản là cái hiểu về các thực tại là vô ngã vẫn chưa có. Cần tránh việc đi vào sưu tập các thuật ngữ, chẳng hạn “giới”, “ý giới”, “ý thức giới”,… Những thuật ngữ như vậy có thể chứng tỏ ta có nhiều kiến thức, nhưng nếu không hiểu về những gì đang xuất hiện hiện giờ thì điều đó thật vô ích. Nếu coi mục tiêu là thu thập các thông tin và nắm được các con số,… để trở thành một chuyên gia trong lĩnh vực Vi Diệu Pháp, liệu ta có thực sự chân thành trong việc tìm hiểu Vi Diệu Pháp để phát triển hiểu biết không?

Như Achaan đã giải thích, cái thấy hiện giờ là pháp, vì nó là thực. Nó không phải là ai đó, nó là vô ngã, vì thế nó là thực tại tối hậu. Bởi vì nó rất khó nắm bắt, rất khó để có thể hiểu được, cho nên nó là vi diệu, nó là vi diệu pháp. Vì thế, nói đến cái thấy hiện giờ là đang nói đến pháp, nói đến pháp chân đế, và cũng là nói đến Vi Diệu Pháp. Như vậy, không nên cho rằng Vi Diệu Pháp là một phương pháp hay cách phân loại thực tại. Vi Diệu Pháp nói đến những gì là thực để có thể phát triển hiểu biết về nó. Việc Đức Phật có giải thích chi tiết cho đối tượng hội chúng cụ thể nào hay không tùy thuộc vào mức độ hiểu biết đã được tích lũy của hội chúng đó, theo như ông Jonothan đã giải thích.

Câu hỏi trực tuyến: Tôi nghĩ rằng không ai ngoài Đức Phật có thể thấy được từng khoảnh khắc của tâm trong 121 tâm và 52 tâm sở. Cũng như vậy, không ai có thể thực sự kinh nghiệm những gì xảy ra trong từng sát na sinh diệt của pháp. Vậy học tất cả lý thuyết Vi Diệu Pháp có mục đích gì, ngoài việc là có thêm kiến thức mà thôi?

Jonothan: Tôi nghĩ đây là câu hỏi rất hay vì chúng ta không tìm hiểu Pháp hay bất cứ phần nào của Giáo lý của Đức Phật chỉ với mục đích để có thêm kiến thức. Chúng ta học về những gì Đức Phật thuyết giảng để có thể làm duyên cho hiểu biết về những gì sinh khởi hiện giờ một cách đúng đắn. Nếu không được nghe về cái thấy, cái nghe, âm thanh, đối tượng thị giác…, chúng ta sẽ không bao giờ nghĩ rằng đó là những thực tại cần phải được nhận biết. Ngoài những thứ vừa kể còn có rất nhiều thực tại khác có thể là đối tượng của chánh niệm. Trong sự phát triển trí tuệ, mọi thứ đều phải diễn ra rất từ từ, theo từng giai đoạn. Trước tiên là có việc nghe về các thực tại, sau đó có hiểu biết ở mức độ tư duy về những gì được nghe. Điều đó có thể làm duyên cho những khoảnh khắc có sự suy xét chân chánh về những gì xảy ra trong giây phút hiện tại. Tất cả những cái đó có thể làm duyên cho khoảnh khắc kinh nghiệm trực tiếp thực tại về sau. Chúng ta cũng học trong Giáo lý về các mức độ trí tuệ hay hiểu biết khác nhau, tức là Pháp học – hiểu biết ở mức độ lý thuyết, rồi Pháp hành – hiểu biết ở mức độ trực tiếp. Hiểu biết ở mức độ lý thuyết hay trực tiếp cũng đều là các pháp, không do sự kiểm soát của ai cả. Tất cả đều là vô ngã.

Pháp đàm tại Sài Gòn, chiều ngày 06/01/2015

Câu hỏi trực tuyến: Xin cảm ơn Achaan và các quý vị đã có những câu trả lời rất ý nghĩa cho hai câu hỏi hôm qua của con. Tuy nhiên con có cảm giác là quý vị đang dùng sự thật chân đế để giải thích cho câu hỏi về tục đế. Theo sự hiểu biết của con, cả hai thực tại này cùng tồn tại, mọi thứ đúng trong thực tại này thì cũng phải đúng trong thực tại kia, đó là lý do tại sao lại được gọi là các thực tại. Khi con nói rằng chúng ta cố gắng tinh tấn, con muốn nói đến hai thực tại, thứ nhất đó là các pháp đang vận hành và không có ai ở đó cả, hai là tác ý chân chính để theo đuổi các thiện pháp. Vì vậy chúng ta sẽ đi lòng vòng nếu như nói, không có ai tinh tấn, không có ai thực hành chánh niệm, như thế chúng ta có thể đang không khích lệ cho sự phát triển tâm linh của người khác.

Như Bà đã nói, Đức Phật dạy cho mỗi người phù hợp với khả năng của họ, có những người Đức Phật dạy về bố thí, trì giới, hay các cảnh giới chư thiên, hay trách nhiệm với cha mẹ, gia đình, hoặc làm thế nào để cho tài sản tăng trưởng. Tuy nhiên, mọi thứ đều hướng tới “hiểu biết đúng” nhưng theo những cách khác nhau, vì mọi thứ đều là các pháp vô ngã, dù cho người ta biết tới điều đó hay không. Bằng sự thực hành với những cách như thế, trí tuệ sẽ sinh khởi theo nhân duyên khác nhau, nếu không Đức Phật đã không dạy gì khác ngoài “hiểu biết đúng”. Bản thân Vi Diệu Pháp đã không được phổ biến cho tới lần kết tập kinh điển lần thứ hai. Như thế nhiều người đã đạt được sự giác ngộ chỉ bằng việc nghe Giáo pháp của Đức Phật theo nghĩa tục đế. Quý vị có nghĩ rằng phương pháp của Achaan chỉ hữu ích đối với một nhóm nhỏ nào đó không? Hi vọng phước báu của quý vị sẽ trợ duyên cho sự chứng ngộ chánh pháp. Xin cảm ơn.

Jonothan: Chúng ta đang nói về sự thật đã được thuyết giảng bởi Đức Phật. Vậy câu hỏi đặt ra là, Đức Phật đã nói những gì về sự phát triển con đường đi tới giác ngộ? Một điều chúng ta cần nhớ là: Đức Phật đã giảng Pháp cho những người khác nhau, và đã dạy Giáo lý cho mọi người theo nhiều cách khác nhau. Chúng ta cũng nhớ rằng, nhiều người trong thời Đức Phật đều là những người đã có tích lũy hiểu biết rất cao, ở mức độ có thể giác ngộ ngay sau khi nghe Đức Phật giảng một câu Pháp. Có những người giác ngộ sau khi nghe trọn bài Pháp và có những người cần nhiều hơn thế. Với những người có hiểu biết cao như vậy, Ngài có thể dạy Giáo pháp bằng ngôn ngữ chế định. Bởi vì trong nhiều kiếp quá khứ, họ đã tích lũy hiểu biết về các pháp chân đế (thực tại) sinh khởi trong khoảnh khắc hiện giờ. Tuy vậy, những người đó vẫn cần phải được nghe Pháp trở lại trong kiếp cuối ấy, để có thể làm duyên cho trí tuệ đã tích lũy trong vô lượng kiếp được viên mãn tới mức độ giác ngộ. Mặt khác, dù dùng ngôn ngữ chế định với họ, những gì Đức Phật chỉ tới vẫn là các pháp chân đế, nhưng không nhất thiết là phải sử dụng những thuật ngữ như vậy cho những người ấy.

Đúng là Đức Phật có dạy cho một số người về giới, về bố thí, về ứng xử trong gia đình với cha mẹ như thế nào. Nhưng nếu chúng ta đọc những bài Kinh đó một cách cẩn thận, chúng ta thấy rằng bên cạnh những lời giảng đó, Ngài cũng nói về các thực tại hiện khởi.

Đức Phật là bậc Chánh đẳng giác, có khả năng biết được căn cơ của mỗi người, biết được điều gì thích hợp cho mỗi người để nghe và có thể phát triển hiểu biết. Như vậy, ta có thể có niềm tin rằng, khi Đức Phật giảng về các thiện pháp như bố thí, trì giới hay về việc phụng dưỡng cha mẹ,… là chắc chắn có lợi cho người nghe ở thời điểm đó, để họ có cơ duyên nghe tiếp về thực tại về sau. Vì vậy tôi không nghĩ là đúng khi ta nói rằng, với một số người, Đức Phật chỉ dạy về bố thí, trì giới hay phụng dưỡng cha mẹ. Tôi cũng không nghĩ rằng những lời dạy đó của Ngài có thể được coi là một cách thực hành cần phải làm theo để sau đó có thể phát triển hiểu biết.

Xin nhắc lại lần nữa rằng, chúng ta cần phải đọc mỗi bài Kinh một cách rất cẩn mực. Chúng ta cần phải rất thận trọng với việc giả định rằng nó đi ngược lại với những gì chúng ta đang trao đổi về quá trình phát triển hiểu biết. Chúng ta cần nhớ rằng, sự phát triển của con đường Bát Chánh Đạo thực chất phải là một với tất cả mọi người, đương nhiên đó cũng là thông điệp của Kinh Tứ niệm xứ. Tất nhiên, lời dạy của Đức Phật với mỗi người có sự khác biệt nhiều, điều đó phụ thuộc vào tích lũy, vào căn cơ của mỗi người. Tùy thuộc vào khả năng hiểu biết của họ mà khía cạnh nào của Giáo lý sẽ tốt hơn với họ để được nghe. Với những người có khả năng hiểu Giáo lý qua những khái niệm như giới (dhātu), uẩn (khandha),… Đức Phật sẽ dạy những cách phân loại ấy cho họ. Khi đọc Kinh, có rất nhiều bài ta thấy nội dung rất giống những gì có thể tìm thấy trong Vi diệu Pháp.

Nếu như có một chút hiểu biết nào đó về thực tại đang xuất hiện hiện giờ, chúng ta nên trân quý và tri ân những lời dạy của Đức Phật về các thực tại mà chúng ta đang được nghe. Vì những gì cần thiết cho sự phát triển trí tuệ của con người hiện tại chính là những lời tới từ sự Giác ngộ của một vị Phật, chứ không phải từ người khác. Những cách vun bồi thiện pháp có sẵn ở những thời không có Đức Phật và trước khi Đức Phật

Giác ngộ sẽ không đủ cho sự phát triển trí tuệ. Tất nhiên chúng tôi không nói rằng, chúng ta phải bỏ qua hay không quan tâm tới các hình thức thiện pháp khác nhau. Nhưng sự phát triển của Tứ niệm xứ chính là cái sẽ đưa tới các tuệ giác, và cũng là sự thanh lọc của tất cả các hình thức thiện pháp khác.

Sarah: Tôi muốn nói thêm một chút. Đây là một cái ly, bất kể ai – những người chưa từng nghe, người đã từng nghe Giáo lý của Đức Phật hay những bậc Giác ngộ đều biết đây là một cái ly. Nhưng nếu không được nghe Giáo lý của Đức Phật, chúng ta sẽ không thể biết được bản chất của cái mà ta vẫn gọi là cái ly đó là gì. Khi đã hiểu về bản chất của cái được gọi là “cái ly”, chúng ta vẫn có thể nói về cái ly nhưng có thể hiểu rằng đó thực chất chỉ là đặc tính cứng được kinh nghiệm hay đối tượng thị giác được thấy,… Hay nói cách khác, không phải là ngôn từ, mà hiểu biết mới là điều quan trọng. Bạn có nói rằng “Khi tôi nói tôi nỗ lực, cố gắng, hay làm thiện pháp… là thực chất nói đến các pháp đang sinh khởi, vận hành mà thôi”. Điều đó đúng. Tuy nhiên, ngay cả khi bỏ đi từ “tôi” trong câu nói đó và dùng toàn những từ chỉ về thực tại, vẫn có thể có tà kiến trong đó, khi cho rằng cần tạo ra sự nỗ lực, cần có ý định phát triển chánh niệm, hay cần có ý định làm thiện pháp để chánh niệm sinh khởi. Vẫn có ý niệm về ngã khi cho rằng những thiện pháp đó được tạo ra do bởi ý chí hay ý định.

Bạn nói rằng, việc chúng ta nói về các thực tại như “không có ai làm công việc phát triển hiểu biết, không có ai chánh niệm” dường như sẽ làm nhụt chí những người muốn phát triển con đường hiểu biết Giáo pháp của Đức Phật. Suy nghĩ ấy chỉ ra đã có một ý niệm về “cái ngã” thực hành. Vì việc được nghe rằng “các pháp chỉ là các pháp” không thể làm nhụt chí. Đó đơn thuần chỉ là sự thật mà thôi! Hiệu ứng của nó thực chất sẽ đưa tới sự giải thoát khỏi ảo giác có một “tự ngã” nào đó. Vậy điều đó không thể làm ta nhụt chí. Khi có ý niệm về một “tự ngã” nào đó có thể thực hành hay làm cái gì đó, khi đó có sự dính mắc với con đường phi đạo. Tôi hoàn toàn đồng ý với ông Jonothan rằng, Đức Phật là người có khả năng thấy được căn cơ của chúng sinh, cho nên Ngài biết người nào cần nghe những gì. Đức Phật đã giảng bài pháp tuần tự cho vua hủi Suppabuddha và chỉ ra, giới là không đủ, bố thí là không đủ; Ngài cũng nói đến những điều diệu kỳ nơi cõi thiên để rồi cho thấy, tất cả những phúc lạc đó đều không trường tồn, thường hằng và để đập tan suy nghĩ của vị đó khi cho rằng, phát triển jhāna – các tầng thiền là cách đạt tới thoát khổ và giải thoát. Sau đó, Đức Phật cũng chỉ ra con đường phát triển tuệ giác hiểu về các pháp “như nó là”. Bởi vì Ngài biết rằng đến thời điểm đó, vua hủi sẽ có khả năng lĩnh hội những điều Ngài đã giảng.

Dù thế nào đi nữa, chỉ có duy nhất một con đường đúng, đó chính là con đường Tứ niệm xứ. Vậy vấn đề không phải là làm cái này hay cái kia, thực hành theo cách này hay cách kia để trí tuệ sinh khởi. Đó chỉ đơn thuần là vai trò của tâm sở trí tuệ sinh khởi do những duyên của chúng và được phát triển lớn mạnh cũng nhờ những duyên riêng của chúng. Đức Phật tất nhiên không chỉ dạy về trí tuệ và chánh kiến, mà còn dạy về tất cả các pháp (thực tại) tịnh hảo. Ngài cũng dạy về các pháp bất thiện, các sắc và mọi thứ – những pháp cấu tạo nên cái gọi là cuộc sống. Nhưng nếu không có hiểu biết đúng hay chánh kiến, sẽ không có pháp nào trong đó được nhận biết. Như Achaan đã giải thích hôm trước, tất cả các ba la mật như bố thí, trì giới, xuất gia, trí tuệ, tinh tấn, kham nhẫn, chân thật, quyết định, tâm từ, tâm xả sẽ không được coi là ba la mật nếu chúng không đi kèm với hiểu biết đúng.

Một điều nữa, tôi muốn nhận xét về từ “Vi Diệu Pháp”. Những gì chúng ta thảo luận trong mấy ngày qua như cái thấy, cái nghe, hay suy nghĩ, … đều là “Vi Diệu Pháp”, là những gì xuất hiện trong cuộc sống của chúng ta. Đây chính là Giáo lý của Đức Phật – một Giáo lý rất vi tế. Chúng ta có thể tìm thấy những lời dạy này trong tạng Luật, tạng Kinh hay Tạng Vi Diệu Pháp. Nhưng nếu không có sự suy xét cẩn thận thì tất cả những gì chúng ta gọi là sự thật tục đế hay sự thật chế định đều sẽ bị hiểu sai.

Pháp đàm tại Nha Trang, sáng ngày 21/05/2015

Người hỏi: Cho con hỏi, có hay không có các pháp? Nếu có thì có cái gì? Nếu không có thì không có cái gì?

Jonothan: Bạn có cần phải hỏi là hiện giờ có pháp hay không? Liệu bạn nghĩ rằng hiện giờ không có gì là sao?

Người hỏi: Con không rõ về cái hiện giờ hay tương lai, nhưng con được nghe nhiều về từ “pháp”. Từ đầu buổi đến giờ, con nghe rất nhiều điều về pháp. Con muốn hỏi, “pháp” thực sự là có hay không có? Nếu có thì nó đang có cái gì, nếu không thì nó không có cái gì? Theo con thì pháp nó có, nhưng thực tế thì nó lại không có.

Jonothan: Thật may mắn là Đức Phật đã để lại cho chúng ta lời dạy rõ ràng rằng cái gì là thực và cái gì không phải là thực. Mặc dù chúng ta không thể ngay lập tức hiểu trực tiếp những gì Ngài thuyết giảng, nhưng chúng ta vẫn có thể tự suy xét, kiểm chứng xem liệu những gì đang diễn ra có tương ứng với những gì Ngài dạy không. Chẳng hạn như: nhãn thức có phải là một với nhĩ thức hay không? Hay nhãn thức và đối tượng thị giác có phải là một không? Hiện giờ chúng có thực hay không? Vì vậy chúng ta cần phải nghe và suy xét cẩn thận chứ không nên vội vã kết luận. Chúng ta không chấp nhận với niềm tin mù quáng, và chúng ta cũng không phủ nhận chỉ vì chưa thực sự hiểu điều Ngài muốn nói. Tuy nhiên, chúng ta có thể ghi nhớ những điều đã được nghe, và dần dần có thể sẽ có sự khẳng định rằng, những gì Đức Phật dạy là hoàn toàn chính xác.

Điều quan trọng đầu tiên cần biết là ta phải bắt đầu từ đâu. Nếu chúng ta muốn bắt đầu bằng việc hiểu về sự giác ngộ hay về sự sinh diệt của các pháp hiện giờ thì chúng ta đã đặt mục tiêu quá xa. Có rất nhiều pháp xuất hiện trong ngày, nhưng một số pháp thì dễ thấy hơn những pháp khác. Chính vì vậy khi thuyết Pháp, Đức Phật thường bắt đầu giảng về cái thấy và đối tượng thị giác, cái nghe và âm thanh, đặc tính cứng được kinh nghiệm qua thân thức, các thực tại được kinh nghiệm qua các căn khác, và những suy nghĩ tiếp nối những kinh nghiệm qua các căn ấy. Như vậy, chúng ta phải tìm hiểu kỹ ngay từ ban đầu để phát triển hiểu biết dần dần, từng bước một.

Sarah: Khi bạn cầm micro để nói thì cái gì được kinh nghiệm ở khoảnh khắc đó? Bây giờ bạn hãy cầm micro lên và hãy nói xem, cái gì được kinh nghiệm qua thân căn?

Người hỏi: Câu hỏi của con là do con đọc và không hiểu. Như ông vừa nói, cần phải có thời gian để suy xét mọi chuyện chứ không phải là chỉ chấp nhận nó như một sự thật. Vì thế đây là câu hỏi tới giờ con không hiểu.

Sarah: Khi bạn cầm micro thì bạn cảm nhận cái gì? Bạn kinh nghiệm được gì ở tay?

Người hỏi: Con cảm nhận micro trong tay cứng, lạnh.

Sarah: Ở khoảnh khắc kinh nghiệm đó thì đặc tính cứng có thực không?

Người hỏi: Dạ, có thực.

Sarah: Cái lạnh ở khoảnh khắc đó có thực không?

Người hỏi: Dạ, có thực.

Sarah: Âm thanh có thực ở khoảnh khắc nghe không?

Người hỏi: Dạ, có thực.

Sarah: Cái được thấy có thực ở khoảnh khắc của cái thấy không?

Người hỏi: Dạ, có thực.

Sarah: Đó là pháp. Đó là các pháp!

Pháp đàm tại Nha Trang, chiều ngày 21/05/2015

Người hỏi: Achaan có phải là học trò của Achaan Neab không?

Achaan Sujin: Đúng rồi. Tuy vậy tôi quy y Tam Bảo, nương vào Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng.

Người hỏi: Con rất tri ân sự chỉ dạy của Achaan thời gian qua. Chúng con cũng đã rõ hơn rằng: sự phát triển hiểu biết là một con đường rất dài. Xin Achaan nói rõ hơn về tâm và đối tượng của tâm, cụ thể ở đây là cái nghe và âm thanh.

Achaan Sujin: Hiện giờ có âm thanh xuất hiện không? Chỉ tại khoảnh khắc của cái nghe thôi, đúng không? Mọi người có thể có khái niệm đơn giản rằng có cái nghe và âm thanh, nhưng không có cái hiểu về các thực tại ấy. Tại khoảnh khắc này, thông thường nếu không được nghe Giáo lý của Đức Phật thì sẽ là vô minh về cái nghe hay âm thanh. Nhưng sau khi được nghe Giáo lý, sẽ có hiểu biết rằng cả cái nghe và âm thanh đều không trường tồn. Vì vậy không phải là “tôi” nghe. Đó chỉ là một thực tại do duyên sinh. Nếu không có nhĩ căn (là tai) thì sẽ không có cái nghe sinh khởi. Ai đó có thể có suy nghĩ “tôi biết rồi, nếu không có tai thì không có cái nghe”, nhưng lại không hiểu về tính chất của thực tại là cái nghe đang kinh nghiệm âm thanh cụ thể đó. Hiện giờ cái nghe ở đâu, âm thanh ở đâu? Đó là những gì tạo nên cuộc sống này, từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác. Nếu không có thực tại kinh nghiệm, nhận biết đối tượng, sẽ không thể có khái niệm về tôi hay bất cứ con người nào khác. Và ngay lúc này, ở khoảnh khắc nghe về Giáo lý, có thể có hiểu biết rằng cái đang xuất hiện là một pháp do duyên sinh, sinh và rồi diệt đi.

Jonothan: Chức năng của nhĩ thức là kinh nghiệm âm thanh. Nhĩ thức không có chức năng biết được âm thanh đó là tiếng nói của một người hay tiếng xe cộ. Nhĩ thức chỉ kinh nghiệm âm thanh mà thôi. Cũng giống như nhãn thức chỉ có chức năng kinh nghiệm đối tượng thị giác. Nhãn thức không biết được cái nó kinh nghiệm là con người hay những hình dạng khác nhau. Chính suy nghĩ là cái nhận biết đây là người đang nói; chính suy nghĩ hiểu được ý nghĩa của ngôn từ. Như Achaean đã nói, âm thanh chỉ là âm thanh, bản thân âm thanh không có nghĩa gì cả, nó chỉ là thực tại được kinh nghiệm bởi nhĩ thức mà thôi. Vì vậy khi cái nghe kinh nghiệm âm thanh là một khoảnh khắc, còn khi nhận biết nghĩa của âm thanh đó lại là khoảnh khắc khác, nhưng tất cả chỉ là giới (dhātu), là pháp mà thôi. Có những thứ là danh – là yếu tố có khả năng nhận biết, có những yếu tố là sắc – tức là pháp không có khả năng nhận biết gì cả.

Người hỏi: Qua suy nghĩ thì con thấy những điều ấy là đúng. Nhưng để kinh nghiệm sâu sắc hơn về những lời nói đó, dường như vẫn ít có những khoảnh khắc kinh nghiệm sâu hơn về điều đó.

Jonothan: Tôi hiểu điều bạn muốn nói là: Để hiểu được điều đó thì dễ, nhưng kinh nghiệm trực tiếp điều đó rất là khó, có phải vậy không?

Người hỏi: Đúng vậy.

Jonothan: Sở dĩ chưa có kinh nghiệm trực tiếp vì hiểu biết đúng vẫn chưa được phát triển. Vì thế tất cả chúng ta cần có sự lắng nghe liên tục và có sự suy xét thường xuyên. Trong một số buổi pháp đàm trước, có một tu nữ nói rằng, trước kia, khi nghe rằng “thực hành” dễ bị chi phối bởi ý niệm về ngã thì cô chưa đồng ý lắm, nhưng giờ thì cô ấy đã đồng ý. Điều ấy chứng tỏ cô ấy đã suy xét điều này qua thời gian vừa rồi. Tôi nghĩ rằng sự suy xét ấy không chỉ diễn ra trong một vài tuần, mà cần phải qua vài tháng hoặc cả năm trời, vì cô ấy đã tham dự pháp đàm từ hồi ở Huế, tức là cách đây một năm rồi. Như vậy ta thấy đòi hỏi có sự suy xét lặp đi lặp lại.

Người hỏi: Sadhu! Sadhu! Sadhu.

Pháp đàm tại Nha Trang, sáng ngày 03/04/2016

Achaan Sujin: Cách thức để hiểu về thực tại là nghe và thảo luận về các thực tại, từng thực tại một. Mỗi thực tại đều có đặc tính vô ngã. Bây giờ bạn muốn tìm hiểu thực tại nào?

Người hỏi: Xin Bà hãy nói về cái thấy trước.

Achaan Sujin: Bạn nghĩ rằng mình có thể mở mắt, bây giờ chúng ta đặt câu hỏi cái gì là mắt? Lời dạy của Đức Phật rất khác với lời dạy của những vị thầy khác. Mọi người sẽ có những lý giải khác nhau về đôi mắt, nhưng lời dạy của Đức Phật thì rất khác. Như khi bạn nói về mắt thì mắt là mình, nhưng mắt thực chất có phải là “mình” không, hay mắt chỉ là mắt mà thôi? Nếu mắt là một ai đó, vậy khi không có mắt thì người đó biến mất hay sao? Nếu cái thấy là tôi, vậy khi bị mù, không có cái thấy nữa thì cái tôi cũng biến mất hay sao? Nếu cái nghe là tôi, vậy khi không có cái nghe thì không có tôi nữa hay sao? Chẳng hạn, khi thấy thì có ý niệm là tôi thấy, nhưng khi không có cái thấy thì cái tôi đó ở đâu? Chúng ta cần tìm hiểu và suy xét Giáo lý của Đức Phật một cách kỹ lưỡng, để cho cái hiểu trở thành cái hiểu nơi tự thân mình,. Và đó là món quà quí báu nhất mà Đức Phật đã ban tặng chúng ta, tức những lời dạy về sự thật. Đức Phật đã dạy chi tiết từng từ một về từng thực tại để làm suy giảm vô minh và ý niệm cho rằng có một tự ngã tồn tại. Vậy bạn đang nói về đôi mắt hay nói về cái thấy đây?

Người hỏi: Xin Bà hãy nói về cái thấy trước, sau đó sẽ nói về đôi mắt.

Achaan Sujin: Nếu không có mắt thì có cái thấy không? Cái thấy thì không phải là mắt, vì tự mình mắt không thể thấy, và cái thấy cũng không phải là cái được thấy. Cái thấy chỉ là một thực tại do duyên sinh và có nhiều duyên khác nhau để cho cái thấy sinh khởi: Nếu không có mắt thì ci thấy không thể sinh khởi; nếu không có đối tượng thị giác in dấu lên mắt thì cái thấy cũng không thể sinh khởi; nếu không có nghiệp làm duyên cho cái thấy sinh khởi thì cái thấy đó không thể sinh khởi. Một số chúng sinh thấy và một số chúng sinh thì không thấy. Cái thấy là thực tại nhận biết, nó được làm duyên để kinh nghiệm đối tượng thị giác. Ai có thể thay đổi đối tượng của cái thấy thành một thứ khác không? Nếu đối tượng thị giác không có duyên để sinh khởi trước đó, liệu có thể có cái thấy không? Bản thân đối tượng thị giác sinh khởi cũng phải nhờ duyên của chúng. Bất cứ cái gì sinh khởi hiện giờ đều do những duyên khác nhau. Duyên để cái thấy sinh khởi khác với duyên để đối tượng thị giác sinh khởi. Cái thấy là một thực tại sinh khởi để thấy cái được thấy, và nó sinh khởi nhờ duyên của nó, nếu không đủ duyên thì nó không thể có mặt. Mỗi khoảnh khắc là thực chỉ tồn tại trong khoảnh khắc ấy, duy nhất một lần trong vòng luân hồi. Nếu không có gì sinh khởi thì không có vòng luân hồi sinh tử. Bản chất của vòng luân hồi sinh tử là sự tiếp nối của những khoảnh khắc sinh và diệt không ngừng. Bạn đã rõ về cái thấy chưa hay vẫn còn có câu hỏi về cái thấy?

Người hỏi: Dạ con đã hiểu rồi ạ.

Jonothan: Cái thấy không là một với suy nghĩ về cái được thấy. Như Achaan giải thích, khi Achaan nói về khoảnh khắc kinh nghiệm đối tượng là nói về khoảnh khắc của nhãn thức kinh nghiệm đối tượng thị giác. Khoảnh khắc đó hiện giờ có xuất hiện với chúng ta không, hay chúng ta đang thấy một thế giới mà trong đó có con người và cảnh vật? Nhưng đó chỉ là khoảnh khắc của suy nghĩ tiếp nối khoảnh khắc của cái thấy thật sự. Trước khi nghe Giáo lý của Đức Phật, chúng ta cho rằng cái thấy thấy con người và cảnh vật trong căn phòng này. Sau khi nghe Giáo lý thì chúng ta biết rằng khoảnh khắc thấy con người hay cảnh vật trong một căn phòng chỉ là suy nghĩ và nó tiếp nối với cái thấy thật sự. Bản thân suy nghĩ cũng là một loại tâm (hay một loại thức) khác, nhưng tính chất của tâm này khác với tính chất của tâm là cái thấy. Vậy có nhiều thứ để biết và tìm hiểu về cái thấy hơn là chúng ta nghĩ.

Sarah: Bạn nói rằng dường như chúng ta có thể kiểm soát cái thấy bằng việc mở mắt ra hay nhắm mắt lại, hoặc chúng ta có thể kiểm soát được nhiều hành động trong cuộc sống, như chạm vào cái gì, uống cái gì, nghe cái gì… Nhưng cái bạn cho là “tôi” có thể mở mắt hay kiểm soát được việc mở mắt, nhắm mắt đó là gì? Vì chúng ta đã học rằng, cái tạo nên cuộc sống này chỉ là những thực tại khác nhau (gồm yếu tố danh là yếu tố tint thần và yếu tố sắc là yếu tố vật chất),và đó là những gì duy nhất tồn tại, không có một cái ngã hay cái “tôi” nào trong đó. Đức Phật dạy rằng, ý niệm về một cái “tôi” có thể mở, nhắm mắt, có thể kiểm soát những thứ khác nhau trong cuộc sống chỉ là ảo giác mà thôi. Trên thực tế, cái thấy chỉ sinh khởi khi có duyên đầy đủ của nó: Nếu không có nghiệp quá khứ làm duyên cho cái thấy thì sẽ không có cái thấy, chẳng hạn như một số người sinh ra đã bị mù rồi; nếu không có đối tượng thị giác, không có nhãn căn thì không có cái thấy; cũng có các tâm sở khác như tâm sở nhất tâm phải có mặt ở đó cùng nhãn thức để trụ trên đối tượng, khiến đối tượng thị giác có thể được thấy. Càng nghe về Giáo lý của Đức Phật một cách chi tiết, chúng ta càng nhận ra không có một con người nào khiến cho mọi thứ sinh khởi, mà chỉ có các pháp khác nhau diễn tiến theo những duyên riêng của chúng.

Jonothan: Chúng ta dường như có thể nghĩ rằng cái thấy diễn ra một cách liên tục và đồng thời với cái nghe chẳng hạn. Nhưng từ Giáo lý của Đức Phật, chúng ta học thêm một điều nữa là, những cái đó chỉ diễn ra trong từng khoảnh khắc một mà thôi, và ở mỗi khoảnh khắc chỉ có một tâm sinh khởi. Nếu ai đó cảm thấy dường như cái thấy diễn ra một cách liên tục thì điều đó có nghĩa rằng còn rất nhiều điều phải học hỏi thêm về cái thấy.

Người hỏi: Khi mở mắt ra thì thấy có buổi pháp đàm này nhưng khi nhắm mắt lại thì chỉ còn cái nghe.

Vậy đồng hành với cái nghe còn có cái gì nữa ạ?

Sarah: Hiện giờ có sự xúc chạm. Có cảm nhận gì qua thân không? Hiện giờ có suy nghĩ không? Như ông Jonothan đã nói, bên cạnh khoảnh khắc của cái thấy lại xen kẽ khoảnh khắc của cái nghe, của suy nghĩ,… Tất cả những cái đó không diễn ra đồng thời, cái này diễn ra sau cái khác nhưng chúng tiếp nối nhau rất nhanh. Không thể bắt kịp được những khoảnh khắc của thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm tiếp nối một cách nhanh chóng như vậy. Vì thế, cho rằng nên có chánh niệm liên tục về tất cả những điều ấy là một ý niệm sai lầm. Nếu ta nhắm mắt lại và cố tìm xem hiện giờ đang có những gì thì thực chất lúc đó đã có ý niệm về ngã cùng tham ái, chúng thúc đẩy việc tìm kiếm các đối tượng để có thể hiểu về các đối tượng ấy, và điều này ngược với thực tế rằng, chánh niệm sinh khởi một cách tự nhiên, rằng nó sinh khởi nhờ có hiểu biết đúng.

Achaan đã nhấn mạnh rằng Giáo lý của Đức Phật vô cùng vi diệu và thâm sâu, vì luôn có cái bẫy của ý niệm về ngã chờ sẵn, cố gắng nắm bắt cái này hay cái kia, và cố làm cho con đường trở nên không tự nhiên. Chúng ta biết rằng những lời dạy của Đức Phật thật vô cùng quí báu. Ngài đã giảng về các thực tại, còn chúng ta lại mong đợi kinh nghiệm trực tiếp các thực tại ấy, ngay lập tức. Chính sự mong cầu đó làm chúng ta cố chánh niệm về cái nghe, cái thấy, về các thực tại hiện giờ. Nhưng đó không phải là con đường mà Đức Phật đã giảng, vì đó chỉ là ý niệm về ngã đang cố gắng. Nhưng điều ấy cũng không sao, vì thực chất, bản thân sự dính mắc, ý niệm về ngã và sự mong cầu cũng là các pháp sinh khởi và chúng cũng có thể được nhận biết. Như vậy việc tìm hiểu các thực tại không phải là cố chánh niệm hay cố hiểu về chúng.

Pháp đàm tại Nha Trang, chiều ngày 08/04/2016

Người hỏi: Thưa Achaan, trưa nay con được dùng cơm với Achaan và một bạn đạo. Cô ấy nhắc nhở cho con về lời dạy của Bà, rằng hãy học kỹ từng từ một. Trước đây con chưa hiểu được điều này, nhưng giờ con hiểu rằng hãy học để hiểu về đặc tính của từng pháp một. Con rất hoan hỷ. Trước con chỉ học về các tên gọi của thực tại chứ không hiểu về đặc tính của chúng. Con xin Bà giải thích thêm về đặc tính của các thực tại.

Achaan Sujin: Đôi khi đặc tính của thực tại vượt qua ngôn từ. Như cái thấy hiện giờ chẳng hạn. Chúng ta cần bao nhiêu ngôn từ để nói về cái thấy? Nhưng cái thấy hiện giờ đang xuất hiện và nó đang kinh nghiệm cái được thấy. Cái thấy không xuất hiện như đối tượng thị giác, không màu sắc, hình dạng, nó sinh khởi chỉ để thấy đối tượng thị giác, như ngay chính khoảnh khắc này. Đừng mong đợi có thể nhanh chóng hiểu được đặc tính của các thực tại, vì nó đã bị che lấp bởi vô minh cùng tham ái trong vô lượng kiếp rồi. Hãy nghe thêm nữa, suy xét thêm nữa để dần hiểu rõ hơn đặc tính của pháp – đặc tính vượt qua hẳn ngôn từ, vì khi đặc tính xuất hiện thì không có suy nghĩ về đặc tính ấy mà chỉ có cái hiểu về nó mà thôi. Chẳng hạn, khoảnh khắc của sự xúc chạm không phải là một với khoảnh khắc của cái thấy, nó chỉ kinh nghiệm cứng, mềm ở khoảnh khắc ấy. Những tâm khác nhau sẽ kinh nghiệm những đối tượng khác nhau qua các căn môn khác nhau. Sự thật ấy chính là ở khoảnh khắc này.

Leave a Reply

Translate »