Pháp đàm sáng 08-09-2013 tại Vũng tàu

17/      Pháp đàm buổi sáng 08/09/2013 tại Vũng tàu.

 

Vị sư 3:          Sư muốn được chia sẻ một chút kinh nghiệm về hành thiền.

Achaan:         Sư quan tâm đến hiểu pháp hay hành thiền?

Vị sư 3:          Đầu tiên thì sư phải có hiểu biết về lý thuyết, rồi sau đó sư thực hành.

Achaan:         Thế có nghĩa là hiểu biết phải đi trước, phải không? Liệu có ai vừa nghe lời Đức Phật giảng mà có thể hiểu ngay lập tức được không? Trước hết phải hiểu rõ Giáo lý Đức Phật dậy về điều gì, những gì Đức Phật dạy rất khác với Giáo lý của những người khác. Đó là những hiểu biết hoàn toàn mới. Ví dụ, có những người không quan tâm đến hiểu về cái thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm, mà quan tâm đến cuộc sống và những cái mà họ cho là tôi, hay tự ngã. Kể cả khi có ý niệm muốn có hiểu biết thì cũng dễ là cho bản thân. Nhưng Giáo lý của Đức Phật dạy về tính chất vô ngã của các pháp. Vậy có ai trân quý những điều đó không? Không có một tự ngã nào cả và không có gì cả. Những người thực sự quan tâm đến Giáo pháp sẽ quan tâm đến bản chất thực sự của thế giới và của cuộc sống. Nếu không có những hiểu biết này, người ấy sống với ý niệm về tự ngã từ khi sinh ra đến khi chết đi. Nếu không có hiểu biết, sẽ đau khổ khi nghĩ đến việc rời bỏ thế giới này. Còn khi có hiểu biết rằng không gì có thể thuộc về ai cả, sẽ càng trân quý hơn những hiểu biết đúng. Sự dính mắc chỉ mang đến khổ đau. Cách tốt nhất để có thể tận diệt khổ đau là phát triển hiểu biết. Liệu sinh ra chỉ để ăn thì có tốt hay không? Chỉ để ngủ, suy nghĩ, và kinh nghiệm những thứ khác nhau hết ngày này qua ngay khác? Những kinh nghiệm đó trôi qua trong từng khoảnh khắc. Những gì còn lại không phải là tự ngã mà chỉ là một ý niệm về ngã mà thôi. Nếu không có cái thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm thì liệu có “tôi”, hay “bạn bè tôi” hay “thế giới” hay không? Nếu không phải là những thực tại ấy thì thực chất cái gì sinh khởi? Lời dạy của Đức Phật là về sự thực tuyệt đối, không ai khác có thể tự mình biết được chân lý ấy, mà phải nhờ vào những lời thuyết giảng của đức Phật, hướng tới những ai muốn hiểu về bản chất của thế giới và cuộc sống.

Nếu không có khoảnh khắc đầu tiên của thực tại có thể  kinh nghiệm, sẽ không hề có cuộc sống, và như vậy cuộc sống bắt đầu ở khoảnh khắc yếu tố có thể kinh nghiệm kinh nghiệm cái xuất hiện, và khoảnh khắc đó đã hoàn toàn qua rồi, mỗi khoảnh khắc đều như vậy mà thôi. Cuộc sống chỉ là sự nối tiếp của những khoảnh khắc của các thực tại kinh nghiệm cái gì đó, sinh và diệt từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác, nhưng với vô minh, không có hiểu biết về sự thực.  Như vậy Giáo lý của Đức Phật hoàn toàn là về các thực tại tuyệt đối. Chẳng hạn như bây giờ đang có cái thấy. Ai biết được là cái thấy là vô ngã đây? Thông thường khi cái thấy sinh khởi, có thể có ý niệm  “tôi thấy”. Nhưng cái thấy là do duyên tạo, nếu không nó đã không thể sinh khởi. Nếu không có nhãn căn, không có đối tượng thị giác, không có duyên để khoảnh khắc của cái thấy đó sinh khởi thì nó sẽ không thể sinh khởi. Mỗi khoảnh khắc đều do duyên tạo, nếu không sẽ không có gì sinh khởi cả. Sẽ lợi lạc khi hiểu điều ấy đúng như nó là, hơn là không hiểu chút nào về điều ấy. Không thể mong đợi có được Trí tuệ ấy nếu như không có cái hiểu về những gì đang xuất hiện hiện giờ.

Mỗi từ trong Giáo lý của Đức Phật cần phải được hiểu một cách rõ ràng, nếu không chúng ta sẽ hiểu lầm, chẳng hạn như từ “thiền”. Nó là gì và nó có nghĩa là thế nào? Nó không giống như cái thấy: ngay khi ta nghe về cái từ “cái thấy”, ta đã biết ngay nó là gì hiện giờ. Nhưng thiền là gì? Nó ở đâu? Nó có hiện giờ ở đây hay không để có thể được hiểu? Như vậy chúng ta sẽ hiểu rằng nếu như không có cái hiểu thì sẽ không thể nào thực sự biết những từ mà ta đã nghe trong ngày. Chính vì vậy không nên chỉ vâng theo lời của những người khác, nếu những lời ấy không mang đến hiểu biết về những gì đang xuất hiện hiện giờ. Và cần phải biết rõ ý nghĩa những từ được nhắc tới trong Giáo lý của Đức Phật, những từ ấy luôn tạo duyên cho cái hiểu về những gì đang xuất hiện hiện giờ, còn từ “thiền” lại không cho chúng ta hiểu biết nào về những thứ ấy. “Thiền” có nghĩa là gì đây? Hiện giờ đang có cái thấy, cái nghe, và có thể có hiểu biết rằng mỗi thực tại ấy đều là vô ngã. Khi chúng ta càng nghe và suy xét càng nhiều hơn thì càng có thêm hiểu biết về những gì xuất hiện từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác.

Vậy thiền là gì đây? Chỉ từ ấy thôi cũng có thể tạo duyên cho ham muốn đi theo một sự thực hành đó trong khi không có hiểu biết về thực tại của thiền là gì. Để có thể phát triển hiểu biết, cần phải có đối tượng xuất hiện để có thể nghiên cứu về đối tượng ấy, để hiểu về đối tượng ấy, chứ không thể nói chung chung là “hiểu, hiểu”, nhưng thực chất là hiểu gì đây? Khi ta cứ “thiền, thiền” thì thiền là gì đây?

Sarah:            Lúc đầu sư có nói muốn chia sẻ một chút về những kinh nghiệm thiền.

Achaan:         Vậy câu hỏi trước tiên, thế nào là thiền?

Vị sư 3:          Hàng ngày sư ghi nhận giây phút hiện tại, sư nhìn sự vật xung quanh và nhận thấy nó là khổ, vô thường, Khi đó nó có sự rúng động rất mạnh, sư cứ duy trì trạng thái ghi nhận giây phút hiện tại, trong một ngày có rất nhiều lần. Sư học những lời Phật dạy rất chậm rãi, sư càng thấy có sự rúng động rất mạnh bên trong khiến sư có rất nhiều năng lượng, sư không biết nó là cái gì?

Achaan:         Thế còn cái thấy hiện giờ thì sao? Cái thấy hiện giờ sinh và diệt nhưng khi chưa có mức độ trí tuệ đầy đủ thì sự sinh diệt ấy sẽ không thể được kinh nghiệm trực tiếp. Khi trí tuệ ở mức độ phát triển, nó có thể hiểu bất cứ gì ở bất cứ lúc nào. Nếu như đã có hiểu biết thì ở bất cứ khoảnh khắc nào cái thấy xuất hiện, cái hiểu cũng sẽ có ở đó. Nếu như không có cái hiểu đúng về những gì đang xuất hiện hiện giờ thì tất cả những kinh nghiệm kia sẽ không có tác dụng gì cả. Bởi vì cái không hiểu đúng những gì xuất hiện được gọi là vô minh, và chừng nào vô minh ở đó,  nó sẽ không hiểu gì cả. Khi nghĩ rằng “tôi” kinh nghiệm thì về mặt thực chất, do có những duyên để một số hiện tượng xảy ra thì chúng xảy ra mà thôi.

Sarah:            Nói một cách khác đi, dù nói đến pháp học hay pháp hành thì luôn phải quay về khoảnh khắc hiện tại. Nếu không có hiểu biết đúng về những thứ đang xuất hiện, ví dụ như cái thấy hay suy nghĩ, và thay vào đó, ta lại nghĩ đến những kinh nghiệm hành thiền khác, thì ở ngay khoảnh khắc ấy không có pháp học. Một số người có thể cho rằng mình đã có kinh nghiệm về bản chất vô thường của các pháp hay bản chất khổ của các pháp. Nhưng nếu không có cái hiểu về những thực tại như cái thấy hay cái nghe, là những thực tại rất thường xuất hiện, sẽ không thể nào có được tuệ giác ở mức độ cao hơn là hiểu được sự vô thường của những thực tại ấy, và cũng như vậy sẽ không thể hiểu được bản chất khổ của chúng. Chính vì vậy pháp học hay pháp hành đều phải quay về với khoảnh khắc hiện giờ, đó luôn luôn là sự khởi đầu.

Jonathan:     Xin hỏi quý sư, đâu là đối tượng đề mục thiền tốt nhất?

Vị sư 3:          Đối với sư thì bất cứ đối tượng nào xuất hiện, không có cái nào tốt hơn cái nào.

Jonathan:     Những đối tượng đang xuất hiện hiện giờ có thể là đối tượng của thiền không?

Vị sư 3:          Khi sư ngồi xuống hay nằm xuống, lập tức tất cả sự xúc chạm trên cơ thể sư ghi nhận liền. Khi sư nhắm mắt thì lập tức là sư chỉ nghe thôi, những hình ảnh hay những cái khác như nó biến mất. Vậy trạng thái nghe đó có phải nghe như chỉ là nghe không?

Jonathan:      Khi chúng ta không nhắm mắt hay không làm những thứ mà chúng ta gọi là sự thực hành, liệu các đối tượng xuất hiện có thể là đối tượng của thiền không?

Vị sư 3:          Không chỉ riêng lúc ngồi thiền, bình thường mọi đối tượng xuất hiện sư đều ghi nhận.

Jonathan:     Vậy, có sự khác biệt nào giữa những đối tượng xuất hiện khi ta đang làm một việc cụ thể mà chúng ta gọi là thực hành, và lúc chúng xuất hiện trong lúc bình thường như chúng ta đang pháp đàm thế này?

Vị sư 3:          Khi đang ngồi đây thì đối tượng nhiều hơn, khi sư ở nơi thanh vắng thì đối tượng ít hơn.

Jonathan:      Liệu ta có thể nói rằng khi ngồi một mình ở nơi thanh vắng như vậy thì có thể có sự chọn lựa một số đối tượng cụ thể nào đó, hoặc có ý nghĩ là như thế sẽ có sự phát triển chánh niệm tốt hơn không?

Vị sư 3:          Theo sư thì không thể chọn lựa được đối tượng vì đối tượng xung quanh mình rất là nhiều rất là nhanh. Nếu thiền định thì có thể chọn đối tượng là hơi thở hoặc phồng xẹp, nhưng khi mình quan sát thì sẽ không thể chọn theo ý muốn, khi đối tượng đó đến như thế nào thì mình hay biết đối tượng đó.

Jonathan:     Số lượng đối tượng nhiều hơn không quan trọng, bởi vì lúc nào cũng vậy, ở mỗi khoảnh khắc, chỉ có một đối tượng xuất hiện đối với chánh niệm mà thôi. Chính vì vậy, điều mà tôi muốn hỏi sư để sư suy xét thêm là: liệu cơ hội phát triển chánh niệm ở đây như thế này có khác gì so với cơ hội phát triển chánh niệm ở nơi cô tịch vắng vẻ không? Nói một cách khác, tôi muốn hiểu thêm xem là điều gì khiến mọi người nghĩ rằng ta có thể có chánh niệm nhiều hơn khi ở nơi thanh vắng so với khi chúng ta đang đàm đạo trong một đám đông như thế này.

Vị sư 3:          Riêng với sư, sư không còn phân biệt giữa đám đông hay thanh vắng, sư ghi nhận tất cả đối tượng nó xảy đến.

Achaan:         Hiểu biết sẽ đưa tới sự xả ly hay sự dính mắc?

Vị sư 3:          Xả ly.

Achaan:         Vậy ở khoảnh khắc có kinh nghiệm trực tiếp, cái gì sẽ xả ly, là một người xả ly hay trí tuệ xả ly? Liệu ai đó có thể xả ly bằng dính mắc với những gì đang xuất hiện hiện giờ với ý niệm về ngã không? Hoặc cố gắng thật nhiều để xả ly mặc dù không có hiểu biết thực sự? Xả ly thực sự có xảy ra hay không tùy thuộc vào việc ở những khoảnh khắc đó,  một “người” nào đó đang cố xả ly hay chỉ là trí tuệ sinh khởi và làm công việc xả ly. Chúng ta nói đến rất nhiều từ, chẳng hạn xả ly, trí tuệ, tham, sân, v.v…, chúng ta cũng nói đến tà kiếnchánh kiến. Khi trí tuệ không kinh nghiệm tính chất của tất cả những thực tại ấy, hẳn sẽ có một ý niệm về ngã, chẳng hạn như “tôi đang thiền”. Làm thế nào để có thể bớt đi sự dính mắc vào ý niệm về tôi đây? Chỉ ngồi và suy nghĩ thôi thì sẽ không đủ. Sẽ cần phải có hiểu biết trực tiếp về những thực tại mà Đức Phật đã thuyết giảng hiện giờ đang xuất hiện. Cái thấy sinh khởi do duyên, ở thời điểm mà ta đang nói về nó, nó đã sinh và diệt rất nhiều lần. Nếu không có khoảnh khắc bắt đầu hiểu về cái thấy khi nó xuất hiện ở chính thời điểm ấy, sẽ không phải là sự phát triển của trí tuệ, dù ta gọi nó là gì đi nữa. Tại sao bây giờ không ai ở đây có thể kinh nghiệm được sự sinh diệt của các thực tại, của cái thấy khi nó sinh khởi? Có ai không đồng ý là cái thấy sinh và diệt hay không? Nhưng đó vẫn chỉ là từ việc nghe mà thôi, và như vậy chưa đủ để có thể tận diệt ý niệm về ngã, vì vẫn chưa phải là khoảnh khắc kinh nghiệm trực tiếp sự sinh diệt của thực tại ấy. Vẫn chưa phải là khoảnh khắc chứng ngộ rằng cái nghe chỉ nghe mà thôi. Tuy nhiên, hiểu biết được tích lũy từ việc nghe sẽ tạo duyên cho khoảnh khắc kinh nghiệm trực tiếp các thực tại mà ta đã từng được nghe về. Đó chính là sự phát triển của trí tuệ hiểu đúng về những gì đang xuất hiện. Chúng ta có thể nghĩ về sân, nhưng nếu sân không sinh khởi và xuất hiện hiện giờ, đó vẫn chỉ là suy nghĩ về thực tại ấy mà thôi, chứ không có hiểu biết trực tiếp rằng đó chỉ là một thực tại do sinh khởi do duyên. Đó lại là một mức độ hiểu biết khác, được tạo duyên nhờ việc nghe và hiểu dần dần từng bước một, chẳng hạn bây giờ cái gì đang xuất hiện đây? Không có gì đang xuất hiện hay sao?

Ai đó trả lời: Có suy nghĩ

Achaan:         Suy nghĩ không phải là thấy, nó là một thực tại, khi nó sinh khởi nó kinh nghiệm ngôn từ, câu chuyện hay khái niệm. Chúng ta có thể nghĩ về bông hoa nhưng khoảnh khắc đó khác với khoảnh khắc thấy bông hoa ấy. Như vậy ta có thể hiểu về sự khác biệt giữa cái thấy và suy nghĩ. Nếu như không có thực tại sinh khởi để thấy và suy nghĩ, sẽ không có cái thấy hay suy nghĩ về cái được thấy là một cái gì đó. Cuộc sống tiếp diễn do sự sinh diệt của tất cả các thực tại. Vì sinh diệt rất nhanh như vậy cho nên khi không có trí tuệ, vô minh sẽ lập tức cho rằng có ai đấy hay cái gì đấy trong đó, nhưng khi trí tuệ bắt đầu hiểu, nó biết rằng cái thấy không phải cái nghe, không phải suy nghĩ, mỗi thực tại có một đặc tính riêng và có những duyên riêng khiến chúng sinh khởi. Điều ấy có thể dẫn tới hiểu biết cao hơn là không gì có thể được cho là tự ngã. Ai sở hữu cái nghe chỉ ở khoảnh khắc trước đây thôi? Nó đã qua rồi, một cách hoàn toàn, tuy nhiên ở khoảnh khắc nghe lại có ý niệm “tôi nghe”, sau đó cái “tôi” nghe đó đã đâu rồi, âm thanh được nghe đó đâu rồi? Chúng đều đã diệt mất rồi, từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác mà không hề có sự hay biết.

Chính vì vậy dù có cái hiểu về mặt tư duy về sự vô thường của tất cả mọi thứ, nhưng nếu vẫn chưa có được khoảnh khắc kinh nghiệm trực tiếp về thực tại như nó là, thì ý niệm về ngã sẽ vẫn còn ở đó. Chính vì vậy giáo lý của Đức Phật không phải chỉ về hiểu biết về mặt lý thuyết hay tư duy mà thôi. Đức Phật cũng chỉ ra cho chúng ta con đường chánh đạo để phát triển hiểu biết ở mức độ cao hơn, đó là trí tuệ có thể hiểu về các thực tại hiện giờ một cách trực tiếp chứ không qua một phương tiện hay cách thức nào đó, bởi vì cái được gọi là con đường khác hay cách thức khác lại là con đường không hiểu về những gì đang xuất hiện. Khi không có hiểu đúng về cái đang xuất hiện, tà kiến cùng với tham ái sẽ dẫn ta tới sự thực hành sai trái và không hiểu về cái đang xuất hiện trong khoảnh khắc này. Và nếu như không có hiểu biết đúng biết được đâu là con đường đúng, đâu là con đường sai, vô minh và tà kiến sẽ tiếp tục dẫn ta trên con đường phi đạo, và tham sẽ cố thật nhiều để đạt được kết quả, và muốn được kết quả cho ai đây? Cho tôi, cho bản thân tôi. Như vậy, nếu không có trí tuệ  hay chánh kiến, sẽ không thể nào tận diệt được ý niệm về ta.

Chúng ta đọc và thảo luận về những gì có trong Tam tạng cũng như các chú giải mà Đức Phật đã để lại để thực sự hiểu Đức Phật đã dạy những điều gì và để dần xả ly khỏi ý niệm về ngã, cái là một hiểu biết sai lầm, là tà kiến. Liệu ta có đủ kiên nhẫn không đây? Chúng ta biết rằng cần nhiều thời gian để có thể kinh nghiệm cái xuất hiện hiện giờ như nó là, nhưng không có con đường nào khác, chúng ta sẽ vẫn còn phải tiếp tục tái sinh trong vòng luân hồi từ kiếp này sang kiếp khác nếu vẫn còn vô minh, nhưng tà kiến là thứ nguy hiểm nhất bởi vì chừng nào vẫn còn tà kiến, sẽ không có con đường nào thoát khỏi luân hồi cả, sẽ mãi ở trong vòng vô minh và tham ái.

Vị sư 3:          Sư có một câu hỏi nữa, Sư rất hay thấy người âm trước mặt, ban đầu rất là sợ hãi, rồi từ từ sư không có ý niệm về ngã, từ từ thì sư không sợ nữa, sư coi họ như những chúng sinh khác. Nhưng sư không hiểu tại sao càng ngày sư gặp càng nhiều. Sư đi đến nơi nào họ cũng xuất hiện. Thường thì họ không có hại mình nhưng họ cần mình giúp đỡ.

Sarah:            Achaan có nói lúc trước rằng, khi ta theo đuổi sự thực hành với dính mắc thay cho con đường của xả ly, ta có thể gặp phải rất nhiều loại kinh nghiệm. Chẳng hạn lúc trước sư có nói đến việc trong cuộc sống hàng ngày, có ghi nhận được sự vô thường, khổ và khi đó thân sư có sự rung động. Nguyên nhân của hiện tượng ấy là do có sự chú tâm thái quá, và chính định ấy dẫn tới những hiệu ứng như vậy. Khi có sự cố sức với mong muốn đạt được kết quả, chẳng hạn như thấy được sự vô thường, ở đó không có hiểu biết đúng. Định là kết quả của sự cố sức ấy sẽ là tà định và không phải là con đường chánh nếu như không có hiểu biết đúng và sự xả ly ngay từ lúc ban đầu. Ở đó khi ấy vẫn có sự dính mắc với cái gọi là kinh nghiệm của tôi, thân tôi, sự thực hành của tôi, sự tập trung của tôi. Vừa rồi, sư có nói đến việc kinh nghiệm những cảm thọ xung quanh trên toàn thân, đây cũng là một loại thực hành rất phổ biến. Ta có thể cho rằng, ở thời điểm có sự quan sát đó, có vẻ như không có sự lựa chọn nào cả, nhưng thực chất cũng không phải là một cách tự nhiên, bởi vì ở đó vẫn có sự dính mắc vào sự tập trung và vào kinh nghiệm, không có cái hiểu và xả ly với đối tượng đang xuất hiện hiện giờ. Bởi vì ta muốn có kết quả quá nhiều. Kết quả mà ta mong muốn là nhiều chánh niệm hơn, nhiều định hơn, nhưng chính điều ấy dẫn đến kết quả hoàn toàn đối nghịch. Do bị thúc đẩy bởi tà kiến và sự dính mắc, sự mong cầu làm duyên cho hiểu sai và tà định. Điều ấy dẫn tới những kinh nghiệm khác thường như sự rung động hay gặp gỡ những người âm. Cứ tiếp tục như vậy, sẽ càng đi xa hơn con đường đúng là hiểu về các thực tại đang xuất hiện hiện giờ, tức là những thứ rất thông thường như cái thấy, nghe, sự dính mắc v.v…. Đó là lý do mà Đức Phật đã nhấn mạnh rằng ngay từ lúc ban đầu cần phải có chánh kiến cùng với sự xả ly.

Jonathan:     Bất cứ sự thực hành nào đưa đến những trạng thái bất thường, dù là trạng thái khinh công hay nặng nề hay kinh nghiệm ở bên ngoài thân, thấy những thứ thông thường ta không thấy, cảm giác có những năng lượng lạ kỳ…, tất cả những thứ khác thường đó không phải là sự phát triển của hiểu biết về các thực tại đang xuất hiện hiện giờ. Mặc dù ta có thể nghĩ rằng bất cứ đối tượng nào cũng có thể là đối tượng của trí tuệ ở bất cứ nơi nào hay bất cứ thời điểm nào, nhưng nếu ta cho rằng ở một số thời điểm và hoàn cảnh cụ thể nào đó mình có một số loại kinh nghiệm đặc biệt, điều ấy chứng tỏ ta vẫn đang bị dẫn dắt bởi một sự dính mắc rất vi tế. Như vậy, thay cho việc tìm hiểu những kinh nghiệm lạ kỳ của mình, ta có thể để chúng sang một bên, và hãy suy xét để hiểu hơn về những thực tại đang xuất hiện hiện giờ, và nhận ra rằng đó có thể là sự khởi đầu của sự xả ly.

Achaan:         Liệu sư có thể nói thêm một chút về các chúng sinh ở cõi âm mà sư nhắc đến không?

Vị sư 3:          Sư cảm giác họ đến tự nhiên chứ không phải do từ sự thực hành của sư. Vì những lúc sư đang thức đọc sách thì thấy họ trước mặt, không phải từ sự thực hành sai hay tà định gì đó.

Achaan:         Chúng sinh đó chỉ xuất hiện hay có đi lại trước mặt sư không?

Vị sư 3:          Có một số chỉ xuất hiện, có một số thì xuất hiện hơi lâu, một số thì họ nói và cười với mình, hoặc xin phước.

Achaan:         Sư có muốn tiếp tục gặp gỡ họ nữa không?

Vị sư 3:          Sư không có muốn hay không muốn gặp họ.

Achaan:         Ý của sư là không thể có sự lựa chọn gặp hay không gặp họ nữa phải không?

Vị sư 3:          Đúng vậy. Bây giờ sư không có trạng thái sợ họ, bởi vì họ cũng chỉ là chúng sinh.

Achaan:         Vậy ở khoảnh khắc sư thấy họ thì khi ấy có cái thấy đúng không?

Vị sư 3:          Sư thấy họ trong trạng thái tỉnh chứ không phải là mê.

Achaan:         Với mắt mở phải không? cái được thấy về mặt thực chất chỉ là một thực tại được thấy, bất kể nó là gì đi nữa, và cái hiểu đúng về nó có thể sinh khởi ở bất kỳ khoảnh khắc nào, khi ấy hay bây giờ, và cái thấy được tiếp nối bởi suy nghĩ về cái được thấy, cũng hệt như bây giờ mà thôi. Nhưng nếu có trí tuệ, nó sẽ sinh khởi để hiểu rằng đó chỉ là một khoảnh khắc của cái thấy và một khoảnh khắc của suy nghĩ. Khi không có hiểu biết, sẽ có vô minh và dính mắc cho cái được thấy là một cái gì đó mà không biết là như thế nào và tại sao. Liệu ta có thể biết rằng khoảnh khắc đó cũng là một khoảnh khắc của vô minh và dính mắc hay không? Hiểu biết đúng có thể được phát triển tới mức độ xả ly với cái được kinh nghiệm, dù dưới hình dạng này hay hình dạng kia. Nếu có trí tuệ, nó sẽ biết được nhiều hơn là chỉ biết cái được kinh nghiệm đó là gì, và trí tuệ ấy sẽ được phát triển đến mức độ không còn quan tâm đến cái xuất hiện là gì nữa, bởi vì tận cùng, cái được thấy cũng chỉ là đối tượng thị giác mà thôi. Khi cố tìm hiểu đó là gì, thực chất đó là sự chấp thủ vào ý niệm về một cái ngã đang muốn biết, nhưng điều muốn biết không thể được biết vì khi đó lại là một suy nghĩ khác rồi. Chỉ có các thực tại tuyệt đối mới có thể xuất hiện để được biết. Khi có hiểu biết về chúng, ta sẽ không còn bao giờ xa rời những gì đang xuất hiện. Sư có nghĩ rằng điều ấy sẽ tốt hơn tất cả những thứ còn lại hay không?

Có những người lại muốn có thêm những kinh nghiệm lạ kỳ như vậy nữa. Tốt nhất là hãy quên chúng đi. Tại sao? Bởi vì tất cả đã qua thì đã qua một cách hoàn toàn, tương lai thì vẫn còn chưa tới. Nhưng có thể có sự đào sâu để hiểu hơn về tính chất vô ngã của những gì đang xuất hiện. Đó là cách để xả ly về bất cứ những gì xuất hiện và ý niệm về ngã ở trong đó.

Vị sư 3:          Cảm ơn Achaan.

Vị sư 1:          Thưa Achaan là trong giáo pháp của Đức Phật, Ngài đã dạy những điều gì và điều đó chúng ta có thể kinh nghiệm ngay phút giây hiện tại này không?

Achaan:         Tôi rất hoan hỉ khi thấy rằng Sư muốn biết về điều mà Đức Phật đã dạy chứ không phải là từ tôi hay từ một vị thầy nào khác. Vậy sư hãy nhắc lại câu hỏi của mình.

Vị sư 1:          Giáo pháp Đức Phật đã dạy có thể được kinh nghiệm trong hiện tại hay không?

Achaan:         Khi trí tuệ được phát triển từ hiểu biết đúng về lý thuyết, nó có thể hiểu đúng về các thực tại xuất hiện hiện giờ giống như là Đức Phật đã dạy. Nếu không phải là như vậy thì sẽ không có từ bhavana– sự phát triển tâm trí hay sự phát triển trí tuệ, từ chỗ không hiểu biết gì về cái đang xuất hiện hiện giờ tới bắt đầu có hiểu biết nhờ việc nghe và suy xét. Đó chính là cách mà trí tuệ được phát triển. Trí tuệ phát triển do duyên tương ứng, chứ không phải do ta đọc một cái gì đó và rồi nghĩ theo cách riêng của mình. Mỗi lời dạy của Đức Phật là vô giá bởi vì nó có thể tạo duyên cho hiểu biết sinh khởi.

Chúng ta không thể mong đợi hiểu được tất cả những từ mà Đức Phật đã dạy chỉ trong ngày một ngày hai. Chẳng hạn như trong tiếng Pali, từ dhamma (pháp) chỉ đến tất cả những gì là thực, như vậy trong một ngày chỉ có pháp mà thôi, từ khi sinh ra cho đến khi chết đi. Nếu ta không hiểu pháp thực sự là gì, ta sẽ đi tới một chỗ khác và tìm kiếm pháp. Nhưng vô minh không thể nào tìm được pháp, chỉ có Trí tuệ mới tìm được pháp mà thôi bởi vì pháp là bây giờ và ở đây. Một số người chỉ nghĩ đơn thuần rằng Pháp là chỉ giáo lý của Đức Phật, nhưng Giáo lý ấy nói về gì? Giáo lý ấy chỉ về tất cả những gì đang xuất hiện hiện giờ. Như vậy, có thể có sự nghiên cứu về pháp ở bất cứ nơi đâu khi sự nghiên cứu về pháp đã đủ chín muồi.

Chúng ta quên gì đây, cái mà chúng ta luôn lãng quên ấy? Chúng ta có đang quên không? Quên cũng là một thực tại, không phải là ai cả, tại khoảnh khắc của cái thấy, ta quên mất rằng đó chỉ là một thực tại, là một pháp thấy chứ không phải ai đang thấy. Cái được thấy đó ở đâu rồi?

Học viên 13: Nó nằm ở trong suy nghĩ

Achaan:         Ta chưa nói đến suy nghĩ, mà chỉ đang nói đến khoảnh khắc cái thấy thấy đối tượng đó mà thôi, và vô minh thì che dấu sự thực, và tham cố gắng rất nhiều để tìm xem thực tại ấy ở đâu. Chúng ta không cần phải làm gì cả, vì cái muốn làm một cái gì đó ấy chính là tâm tham hợp tà kiến, nó muốn tìm xem hiện giờ thực tại ấy (đối tượng thị  giác) ở đâu. Hiện giờ đối tượng đang xuất hiện, và không cần phải có vô minh và tham ái để đi tìm nó, nó đang ở đây rồi, nó có thể được thấy qua mắt, nhưng cái thiếu là hiểu biết về nó. Bởi vì đối tượng thị giác sinh và diệt một cách vô cùng nhanh chóng, cái đọng lại từ cái thấy là hình dạng và những ý niệm về cái được thấy. Có tưởng ghi nhớ lại đặc tính của cái đã xuất hiện, cho nó là một cái gì đó mà chưa cần phải dùng tới ngôn từ. Đây là một cái ly đúng không? Dường như là không cần mất chút thời gian nào để biết được điều ấy. Tuy nhiên nếu không có cái thấy thì có thể có ý niệm về cái ly hay không? Chỉ có trí tuệ của Đức Phật mới chứng ngộ được rằng cái thấy thấy cái được thấy và rồi ngay lập tức đã có cái tham hoặc sân với đối tượng được thấy đó, mặc dù chưa biết cái được thấy đó là gì, tức là trước khi có cái ý niệm về cái ly .

Chính vì vậy hiểu biết đúng về những gì đang xuất hiện sẽ tạo duyên cho hiểu biết về các ơn đức của Đức Phật. Nếu không có hiểu biết đúng, thì dù ta đảnh lễ Ngài bao nhiêu lần đi nữa sẽ vẫn không phải là tôn kính ơn đức của Ngài một cách thực sự, mà chỉ trong ý niệm mà thôi. Do vậy, để có thể có sự quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng thực sự thì cần phải có hiểu  biết đúng về các thực tại mà Đức Phật đã dạy cho chúng ta, chúng sâu sắc và vi tế đến chừng nào. Tuy nhiên, nếu những thực tại ấy không thể được liễu ngộ trực tiếp thì Đức Phật đã không thuyết giảng cho chúng ta về chúng. Như vậy, những lời chân chánh, những lời chân lý đều là Phật ngôn, dù được nói ra bởi ai đi nữa.

Chẳng hạn bây giờ chúng ta đang nói về đối tượng thị giác, có ai không kinh nghiệm đối tượng thị giác đây! nhưng liệu có ai biết được đó chỉ là một thực tại hay không? Đó là một thực tại chỉ có thể được thấy. Cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng hơn nữa để có thể hiểu được đức Thế tôn nhiều hơn, để thấy rõ hơn ơn đức của Ngài, vậy câu trả lời cho câu hỏi “đối tượng thị giác hiện giờ ở đâu?” là thế nào đây? Câu trả lời cần phải tới từ sự suy xét của mỗi người để nó trở thành hiểu biết riêng của họ, chứ không chỉ nghe theo lời của người khác. Vậy câu trả lời là gì đây?

Vị sư 1:          Thông thường chúng ta chỉ thấy người và vật, vậy có phải nghĩ nó là thực tại như Achaan đã nói không?

Sarah:            Chúng ta đã nói là ở khoảnh khắc của cái thấy, cái thấy chỉ thấy đối tượng thị giác mà thôi, ở khoảnh khắc kinh nghiệm đối tượng thị giác thì đó là thứ duy nhất được thấy. Ở khoảnh khắc đó, không hề có ý niệm về thân thể, về cõi này hay cõi khác. Không hề có ý niệm về chúng sinh, chư thiên, cái micro hay bất cứ thứ gì khác. Bởi vì ở khoảnh khắc đó chỉ có sắc là đang được kinh nghiệm bởi cái thấy mà thôi. Sau khi cái thấy đó diệt đi, có những suy nghĩ về cái được thấy rằng đây là chúng sinh ở cõi này, hay đây là cái bàn v.v… Nhưng thực chất, ở khoảnh khắc của cái thấy, không có thế giới nào khác ngoài thế giới của thực tại được thấy mà thôi. Do có tưởng (sanna) làm nhiệm vụ đánh dấu và ghi nhớ về đối tượng ấy, sau đó mới có việc ghi nhớ rằng đây là cái bàn hay con người, nhưng ở khoảnh khắc của cái thấy, không phải là con người được thấy mà chỉ có đối tượng thị giác được thấy mà thôi. Ta có thể thấy rằng phần lớn thời gian, ta sống trong thế giới của những khái niệm và ý niệm mà thôi, những ý niệm về con người và vạn vật, và cả những ý niệm về các thực tại nữa. Có sự dính mắc và chú trọng quá nhiều đến những ý niệm này và quên đi rằng ở khoảnh khắc này của cái thấy, chỉ có đối tượng thị giác đang xuất hiện mà thôi, nó sinh rồi diệt, và chẳng có gì là quan trọng cả.

Vị sư 1:          Mọi khoảnh khắc sinh khởi và qua đi nhưng có thể có những kinh nghiệm ở khoảnh khắc hiện tại này, có sự hay biết cái thấy, cái nghe. Tuy nhiên có trường phái cho rằng tâm biết không sinh diệt mà là cái gì lâu dài …

Sarah:            Bởi vì luôn có sự dính mắc vào một cái ngã nào đó, luôn tìm đến một cái gì đó thường hằng, và điều ấy không thể dẫn đến sự chứng ngộ được khoảnh khắc các thực tại kinh nghiệm và được kinh nghiệm chỉ sinh và diệt, không có gì thường hằng cả.

Jonathan:     Chính vì lý do ấy, Đức Phật đã dạy về ngũ uẩn theo nghĩa tuyệt đối là “cái sinh và diệt”, ngũ uẩn chỉ đến các thực tại hữu vi, bao gồm cả thực tại kinh nghiệm là thức uẩn. Ngoài từ sankhara là để chỉ đến các thực tại hữu vi, cũng có từ sankhata là chỉ đến các thực tại sinh rồi diệt. Sankhara là nói đến các thực tại do duyên mà thành, còn sankhata chỉ rõ các thực tại đó sinh rồi diệt.

Sarah:            Chính vì vậy, quay trở về với câu hỏi đầu tiên của đại đức về Giáo lý đức Phật, chúng ta luôn luôn phải nghiên cứu và suy xét giáo lý của Ngài một cách kỹ lưỡng, nếu không sẽ luôn có ý niệm về ngã, về một cái gì đấy trường tồn.

Vị sư 4:          Khi nói đến kinh nghiệm hiện tại trực tiếp không qua lăng kính nào thì cũng như là trong Đạo Lão có nói trở về với tâm hồn trẻ thơ, hay như chúa hài đồng…, đó là những gì chúng ta nói từ đầu buổi đến giờ. Nhưng theo tôi nghĩ như vậy chưa đủ, vì đức Phật có dạy về quán sát bảy xứ…

Sarah:            Một đứa trẻ không có khái niệm về những thứ được kinh nghiệm, nhưng khi nó chạm vào cái bàn, mặc dù nó kinh nghiệm đặc tính cứng nhưng không có cái hiểu rằng cái cứng đó là một thực tại, là sắc, là vô ngã. Hoặc khi có những đối tượng xuất hiện trước mắt, nó không có ý niệm gì hết, nhưng cũng không có cái hiểu rằng đó chỉ là đối tượng thị giác, là một thực tại, không phải là ngã. Vậy trí tuệ của đức Phật hoàn toàn khác với cái biết của một đứa trẻ.

Chính vì vậy trong chú giải về kinh tứ niệm xứ thì có nói rằng, kể cả con chó, con thằn lằn đều kinh nghiệm vị hoặc đặc tính cứng, nhưng chúng hoàn toàn không có cái hiểu về các pháp là vô ngã.

Vị sư 4:          Đức Phật có dạy các vị tỳ kheo thiện xảo quán sát bảy xứ: thứ nhất là cái này sinh khởi, cái này diệt đi, bốn cái đầu trong Tứ diệu đế, ba cái sau là vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xả ly. Có phải chăng đó là con đường mà Bà nói là để kinh nghiệm cái thực tại hiện tiền đó như nó là. Liệu rằng những phương pháp đó có áp dụng được để dẫn tới sự hiểu biết về thực tại?

Achaan:         Sư nói đến sự quán sát, vậy quán sát gì? Và cái gì quán sát?

Vị sư 4:          Quán sát là phải xem do nhân gì, do duyên gì mà cái này sinh khởi và diệt đi. Làm thế nào nó sinh khởi và làm thế nào nó biến mất.

Achaan:         Nhưng câu hỏi là cái gì được quán sát và ai quán sát?

Vị sư 4:          Chẳng hạn như trường hợp của sư đây thì đối tượng được quán sát là người âm, và cái quán sát đó là người nhận định đối tượng đó. Bởi vì có căn có trần sinh xúc nên có cái thức tương ứng khởi lên.

Achaan:         Khi ta nói rằng có những người ở cõi âm, liệu điều ấy có thể được biết mà không có suy nghĩ không?

Vị sư 4:          Không.

Achaan:         Chính vì vậy khi nói đến quán sát, cái gì chính xác là đối tượng được quán sát và cái gì là chủ thể quán sát?

Vị sư 4:          Không có đối tượng cũng không có chủ thể mà chỉ có cái biết-cái thức thôi. Do căn và trần tiếp xúc nên có cái thức. Nếu có đối tượng và chủ thể thì nó là nhị nguyên rồi.

Achaan:         Vì những lời dạy của Đức Phật rất chi tiết, bởi thực tại rất cụ thể, nên mỗi từ trong Giáo lý đều chỉ đến một cái gì đấy rất cụ thể. Khi ta nói rằng không có chủ thế và đối tượng quán sát thì điều ấy có nghĩa rằng sẽ không thể có sự quán sát xảy ra. Do vậy, câu hỏi đặt ra để tìm cụ thể cái gì là cái được quán sát, và cái gì làm cái công việc quán sát đó?

Vị sư 4:          Câu trả lời ở đây là cái thức.

Achaan:         Thức có phải là trí tuệ không?

Vị sư 4:          Thức ở đây là cái biết trực tiếp.

Achaan:         Ở khoảnh khắc cái thấy thấy qua mắt, chỉ có cái nhãn thức thấy, chứ không phải là trí tuệ thấy, đúng không?

Vị sư 4:          Đúng.

Achaan:         Và tâm không thể sinh khởi một mình, mà nó đồng sinh khởi với một số tâm sở khác. Vậy ở khoảnh khắc có sự quán sát thì có những loại tâm sở nào ở đó?

Vị sư 4:          Tôi không học nhiều về Vi diệu pháp nhưng tôi nghĩ cái thức có trước sau đó có xúc sinh khởi.

Achaan:         Thực chất, tâm hay thức không thể sinh khởi mà không có xúc. Bất cứ lúc nào có tâm sinh khởi cũng kèm theo tâm sở xúc.

Vị sư 4:          Và sau xúc thì có vedana-thọ?

Achaan:         Không. Chúng sinh khởi cùng nhau.

Sarah:            Đức Phật dạy về hai loại thực tại: loại thứ nhất kinh nghiệm một đối tượng gọi là danh, loại thứ hai không kinh nghiệm gì cả gọi là sắc. Có hai loại danh:  tâm thì kinh nghiệm đối tượng, chẳng hạn cái thấy là tâm, cái nghe cũng là tâm và suy nghĩ cũng là tâm. Mỗi tâm sinh khởi luôn đi kèm với bảy biến hành tâm sở. Không một khoảnh khắc nào trong cuộc sống mà tâm không kinh nghiệm một đối tượng nào đó. Bất cứ khoảnh khắc nào tâm sinh khởi kinh nghiệm một đối tượng, nó luôn được đi kèm với ít nhất là bảy tâm sở. Một trong những tâm sở luôn sinh khởi cùng với tất cả các tâm là xúc (phassa), một loại tâm sở khác cũng sinh khởi với tất cả các tâm là thọ (vedana) , và tưởng (sanna) cũng sinh khởi với tất cả các tâm, cũng như tâm sở ekagata (nhất tâm). Mỗi khi tâm sinh khởi, chẳng hạn như ở khoảnh khắc thấy, tất cả những tâm sở đó cùng sinh khởi một lúc và đảm nhận chức năng riêng của chúng. Khi cái thấy thấy đối tượng thị giác, cái được thấy không phải là con người hay cảnh vật, ở khoảnh khắc ấy xúc tiếp xúc với đối tượng. Nếu không có xúc tiếp xúc với đối tượng thì cái thấy sẽ không thể thấy được đối tượng. Cũng ở khoảnh khắc đó thọ cảm nhận đối tượng. Ở khoảnh khắc của cái thấy, thọ là thọ xả, nhưng ở những khoảnh khắc của thân thức thì có thể là thọ lạc hoặc khổ. Cũng ở khoảnh khắc đó, nhất tâm (ekaggata) nhấn vào đối tượng. Tưởng (sanna) đánh dấu và ghi nhớ về đối tượng. Chúng ta có thể thấy rằng ở bất cứ khoảnh khắc nào, tâm luôn sinh khởi cùng với thọ, xúc, và tưởng để kinh nghiệm đối tượng ấy. Chính vì vậy ta không thể nói là thức thấy trước rồi sau đấy mới tới xúc và sau đó tới thọ, bởi vì chúng sinh khởi cùng nhau, đảm nhận chức năng riêng của chúng và rồi diệt đi, lại có những tâm khác cùng kinh nghiệm đối tượng thị giác đó, và những tâm đó thì cũng đồng sinh với những tâm sở khác. Những tâm thiện và bất thiện kinh nghiệm đối tượng ấy đồng sinh với các tâm sở khác nhau, cứ như vậy trong mọi khoảnh khắc của cuộc sống, với tất cả mọi người.

Vị sư 4:          Như vậy có mâu thuẫn với điều bà nói trước đó là tâm chỉ kinh nghiệm một đối tượng tại một thời điểm?

Jonathan:     Tôi đánh giá cao việc đại đức đã đặt ra câu hỏi này liên quan đến câu hỏi đầu tiên. Điều này đưa đến liên hệ rằng, khi đọc kinh, cần được hiểu là những điều chúng ta đọc trong kinh đều để chỉ những gì đang xuất hiện hiện giờ. Khi Đức Phật còn tại thế, những người nghe Đức Phật thường giác ngộ ngay trong khi nghe Đức Phật giảng pháp. Không có bài kinh nào nói những người nghe hãy đi đến một nơi khác để thực hành, mà chỉ có những lời giải thích cho thính chúng về các thực tại ngay nơi khoảnh khắc hiện giờ khi đó. Khi chúng ta nói đến Tứ diệu đế, diệu đế thứ nhất là khổ để, vậy khoảnh khắc hiện giờ có phải là dukkha (khổ) không? Cái thấy hiện giờ có phải là dukkha không? Đối tượng thị giác ở khoảnh khắc hiện giờ có phải là dukkha không? Vì vậy, chúng ta cần phải hiểu những thực tại này là gì và tại sao chúng lại là khổ. Chính vì lẽ đó, chúng ta cần phải có một cái hiểu rất rõ ràng về mặt lý thuyết, về các tâm và tâm sở, tức là về các thực tại, để trả lời cho câu của sư là chỉ có một tâm sinh khởi ở mỗi khoảnh khắc kinh nghiệm chỉ một đối tượng mà thôi.

Sarah:            Mỗi tâm sinh khởi cùng với các tâm sở, như cái thấy hiện giờ sinh khởi cùng các tâm sở. Nhưng đối tượng của cái thấy thì chỉ có thể là một thực tại hoặc khái niệm mà thôi. Ở khoảnh khắc của cái thấy, mặc dù có nhiều tâm sở đi kèm, nhưng đối tượng của tâm thì chỉ có một, đó là đối tượng thị giác. Ở khoảnh khắc của suy nghĩ, tâm cũng sinh khởi cùng với nhiều tâm sở khác nhau, chẳng hạn xúc, tưởng hay tham. Đối tượng khi ấy là những khái niệm, chẳng hạn như cái bàn, cái ly, hay chư thiên. Vì vậy, không có mâu thuẫn gì khi nói rằng các tâm sở sinh khởi cùng tâm đồng thời mỗi tâm chỉ kinh nghiệm một đối tượng tại một thời điểm. Nếu như ta cho rằng những cái đó là nhị nguyên hay không nhị nguyên mà không thực sự tìm hiểu về hai loại thực tại, một thực tại kinh nghiệm và một thực tại không kinh nghiệm gì cả, ta sẽ không thể nào hiểu được Giáo lý của  Đức Phật rằng các pháp là vô ngã. Vì lẽ ấy, Achaan có nói trước đó là Giáo lý của Đức Phật rất chi tiết và vì thế chúng ta cần phải suy xét từng từ một, một cách kỹ lưỡng.

Vị sư 4:          Cảm ơn các vị đã trả lời rất rõ ràng. Tôi đồng ý rằng khi nói về các chi tiết của thực tại như thế thì cũng đang nói về vô ngã. Tôi xin trả lời câu hỏi ban nãy về Dukkha.  Đó là cái đau khổ chỉ xảy ra khi nào có sự ràng buộc vào chấp thủ.

Jonathan:     Nhưng Đức Phật cũng nói tất cả các pháp hữu vi là khổ.

Vị sư 4:          Ngũ uẩn thủ là khổ, điều này được ghi trong Tứ diệu đế.

Achaan:         Vậy cái đang xuất hiện hiện giờ không phải là một trong ngũ uẩn hay sao? Bởi vì hiện giờ cũng đang có sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn.

Người phiên dịch:    Nhân đây con cũng muốn Achaan giải thích kỹ hơn ngũ uẩn thủ là gì?

Achaan:         Hiện giờ có sắc hay không? Khi không có hiểu biết sẽ có sự dính mắc và vô minh. Khi không có hiểu biết thì vô minh ở đó và dính mắc vào đối tượng ấy, cho cái đó là một cái gì đấy trường tồn, sắc không xuất hiện như là một thứ sinh và diệt. Chỉ ở khoảnh khắc trí tuệ kinh nghiệm trực tiếp sự sinh và diệt của thực tại thì mới có sự xả ly, không phải sự dính mắc như thông thường.

Sarah:            Mỗi uẩn đều là khổ bởi vì nó sinh và diệt. Bất cứ khi nào uẩn là đối tượng của sự chấp thủ thì khi ấy được gọi là ngũ uẩn thủ. Đối tượng thị giác đang được thấy hiện giờ sinh và diệt và vì vậy nó là khổ. Khi có dính mắc vào uẩn đó thì khi ấy có sắc uẩn thủ ở khoảnh khắc đó. Chính vì vậy, kể cả các sắc “thuộc về” Đức Phật cũng là khổ bởi vì nó cũng sinh và diệt. Khi đối tượng thị giác được thấy và có sự dính mắc ở trong đó thì sẽ là uẩn thủ.

Jonathan:     Như đại đức đã nói, trong bài kinh về Tứ diệu đế, ở câu cuối cùng trong Khổ đế có nói: Tóm lại ngũ uẩn thủ là khổ. Một kinh ngôn thường được các vị chư tăng ở Thái lan tụng đọc mỗi buổi sáng là: Tất cả các pháp hữu vi đều vô thường, tất cả các pháp hữu vi đều khổ, tất cả các pháp là vô ngã (sabbe sankhara dhamma anicca, sabbe sankkhara dhamma dukkha, sabbe dhamma anatta)

Vị sư 4:          Tức là phải sự nhận biết tham gia vô, chứ cái bàn thì đâu có khổ.

Jonathan:      Cái bàn không phải là pháp.

Vị sư 4:          Nhưng tất cả đều là pháp, cái bàn cũng là pháp.

Jonathan:     Cái gọi là cái bàn xuất hiện qua căn nào?

Vị sư 4:          Xuất hiện qua căn mắt.

Jonathan:     Chúng ta đã nói về việc nghiên cứu Giáo lý của Đức Phật phải rất chi tiết. Trước đó ta có nói rằng theo kinh điển để lại, cái xuất hiện qua nhãn căn hay ta vẫn gọi là mắt chỉ là đối tượng thị giác, không phải là con người hay đồ vật .

Người phiên dịch: Đó là một thực tại có thể được thấy, là một loại sắc, không phải là cái bàn.

Sarah:            Một cách chi tiết, cái thấy là một pháp sinh và diệt và vì vậy nó là khổ. Đối tượng thị giác tức là cái được thấy cũng là một pháp sinh và diệt vì vậy nó cũng là khổ. Đặc tính cứng là một thực tại sinh và diệt vì thế nó cũng là khổ. Nhưng con người, cái micro hay cái ly chỉ là những khái niệm, ý niệm mà thôi và vì vậy chúng không phải là thực tại, chúng không sinh và diệt.

Vị sư 4:          Khái niệm cũng sinh và diệt chứ.

Jonathan:      Khái niệm là cái được suy nghĩ nghĩ về, chúng ta không nên lẫn lộn giữa khái niệm và thực tại –  đối tượng thị giác chẳng hạn. Cái thấy là một thực tại, nó có một đặc tính cụ thể, không phụ thuộc vào con người hay nơi chốn. Dù là người này thấy hay người kia thấy, thấy ở đây hay thấy ở nơi khác thì đặc tính thấy vẫn là thấy mà thôi. Cũng tương tự như vậy với đối tượng của cái thấy, dù ở nơi nào, hoàn cảnh nào, và lúc nào đi nữa,  nó vẫn là như vậy, nó có chung một đặc tính là có thể được thấy. Đối tượng thị giác không phải là cái mà chúng ta vẫn gọi là con người hay cái cây hay những thứ như vậy.

Sarah:            Tương tự như vậy suy nghĩ cũng là một thực tại, nó cũng sinh và diệt, khi suy nghĩ sinh khởi, nó nghĩ về khái niệm, chẳng hạn những khái niệm như cái bàn, cái ly. Khi suy nghĩ đó diệt đi, không còn ý niệm về khái niệm trước đó nữa. Chính vì vậy, cái là thực là suy nghĩ, còn cái là khái niệm thì chỉ được tưởng tượng trong suy nghĩ đó mà thôi, cho nên cái sinh và diệt là suy nghĩ chứ không phải là khái niệm được nghĩ về. Do đó, rất quan trọng cần phân biệt thế nào là khái niệm và thế nào là thực tại. Tất cả các uẩn đều là thực tại, tất cả các giới cũng như các xứ đều là thực tại. Đối tượng của tứ niệm xứ đều là thực tại và con đường mà Đức Phật đã dạy là cái hiểu về các thực tại. Nếu không hiểu được điều ấy, chúng ta cứ tiếp tục nghĩ về những khái niệm khác nhau mà không hiểu rằng chúng chỉ là khái niệm mà thôi.

Vị sư 4:          Khi nói tâm hay biết sinh và diệt, mình có thể nói được chăng là khái niệm là sản phẩm của cái tâm đó cũng sinh và diệt cùng tâm hay không?

Sarah:            Ví dụ ở khoảnh khắc hiện giờ có suy nghĩ về cái ly, suy nghĩ đó là thực, nhưng cái ly mà chúng ta nghĩ về đó không phải là thực vì đó chỉ là một khái niệm mà thôi. Khi suy nghĩ diệt đi, không còn ý niệm về cái ly nữa, nhưng ta không thể nói rằng cái ly diệt đi. Bởi vì ngay từ ban đầu, cái ly đã không phải là thực rồi, đó chỉ là một ý niệm mà ta nghĩ về mà thôi.  Tính cứng là thực, nó sinh và diệt. Cái ly thì chỉ là một ý niệm và nó không sinh diệt, nó chỉ được tưởng tượng và nghĩ về mà thôi.

Vị sư 4:          Tôi cũng hiểu là như vậy nhưng tôi vẫn chưa đồng quan điểm cái bàn là khổ. Bởi vì chính sự dính mắc vào thứ đồ vật đó thì mới là khổ.

Achaan:         Trước khi có bất cứ ý niệm nào về cái bàn thì cái được thấy là gì?

Vị sư 4:          Cái sắc.

Achaan:         Vì sao sư gọi nó là sắc?

Vị sư 4:          Vì Đức Phật định nghĩa sắc là những gì chịu sự thay đổi của thời tiết, biến hoại hình tướng, nhiệt độ.

Achaan:         Chúng ta luôn cần phải quay về với những kiến thức rất căn bản, chẳng hạn sắc là gì và sắc có thể được thấy hay được nghe hay không? Đức Phật không chỉ nói cái này là sắc, cái kia là sắc mà còn giải thích tại sao nó là sắc, đặc tính của sắc là gì, chứ không chỉ gọi tên nó mà thôi.

Vị sư 4:          Đặc tính là chịu sự vô thường, thay đổi

Achaan:         Nhưng nếu nói đến vô thường, chịu sự thay đổi và biến hoại thì tất cả pháp hữu vi đều chịu sự thay đổi, chứ không phải chỉ riêng sắc pháp. Điều gì làm cho sắc khác với danh? Đây là sự khởi đầu của hiểu về pháp.

Sarah:            Để giúp cho chúng ta có thể hiểu hơn và trả lời cho câu hỏi của Achaan, tất cả các thực tại không kinh nghiệm gì cả như tính cứng, mềm, âm thanh, đối tượng thị giác… là sắc, sắc là thực tại không kinh nghiệm gì cả.

Khi Achaan đặt câu hỏi cái gì được thấy, câu trả lời là: cái được thấy không thể là con người hay cái bàn, nó chỉ có thể là một thực tại. Không phải là cái bàn hay cái ly được thấy, mà là một thực tại có đặc tính được thấy, có đặc tính của thực tại không kinh nghiệm gì cả, nhưng được kinh nghiệm bởi một thực tại khác.

Achaan:         Để có thể hiểu được pháp thì cái hiểu phải luôn luôn là về hiện tại, đúng không? Bắt đầu từ việc suy nghĩ xem hiện giờ có pháp hay không. Kể cả khi chúng ta không dùng từ pháp đi nữa, thì bất cứ cái gì là thực đều là pháp. Hiện giờ có cái thấy không? Cái thấy là thực đúng không? Cái được thấy là thực hay là không thực?

Vị sư 4:          Cái được thấy ngay trong hiện tại này là thực.

Achaan:         Như vậy là có hai thực tại, hai loại pháp: thực tại là cái thấy và thực tại là cái được thấy. Chúng ta không thể thay đổi đặc tính của thực tại không thể kinh nghiệm trở thành thực tại kinh nghiệm. Chính vì vậy thực tại mà bất cứ khi nào sinh khởi thì kinh nghiệm một cái gì đó được gọi là danh. Bất cứ khi nào nó sinh khởi thì nó phải kinh nghiệm một đối tượng. Dù ta có biết điều ấy hay không, kể cả khi chúng ta ngủ say vẫn có sự kinh nghiệm, nếu không có thực tại kinh nghiệm thì ta đã chết. Ở khoảnh khắc ngủ say, cảnh vật không xuất hiện, nhưng yếu tố kinh nghiệm vẫn sinh khởi. Đó là sự khác biệt giữa người sống và người chết. Cái gọi là sự sống phải có yếu tố kinh nghiệm ở đó, còn nếu không thì không thể được coi là đang sống. Cái được thấy thì không thể kinh nghiệm gì cả. Như vậy, có hai loại thực tại khác nhau: một là thực tại kinh nghiệm và nó phải kinh nghiệm một cái gì đó bất cứ khi nào nó sinh khởi; loại thực tại thứ hai không kinh nghiệm gì cả khi nó sinh khởi. Như vậy, tất cả các loại thực tại đều có thể được phân chia thành hai đặc tính: loại thứ nhất, là loại thực tại không kinh nghiệm gì cả được gọi là sắc – rupa; loại thứ hai, loại thực tại kinh nghiệm thì được gọi là danh –nama.

Có nhiều loại danh và sắc khác nhau, ở khoảnh khắc của cái thấy, cái gì được thấy? Chúng ta cứ phải quay lại nội dung này để có thể hiểu được rõ hơn một chút. Chúng ta luôn phải quay lại tìm hiểu xem đối tượng thị giác là gì và cái thấy là gì, nếu không, khi được đăt câu hỏi cái thấy là gì, chúng ta có thể trả lời rằng nó là sắc, nhưng không thực sự hiểu nó là gì. Chúng ta đồng ý rằng bất kể ta gọi một pháp là danh hay sắc, thì điểm cốt yếu là nó có một đặc tính riêng biệt, không thể thay đổi thành cái khác. Thực tại không thể kinh nghiệm gì cả được gọi là gì?

Vị sư 4:          Rupa (sắc)

Achaan:         Không phải chỉ là nhắc lại danh từ mà cần phải có cái hiểu thực sự đó là gì. Bất cứ cái gì là thực mà không thể kinh nghiệm gì cả thì là sắc và thực tại kinh nghiệm sắc thì là danh. Vậy cái được thấy là gì?

Vị sư 4:          Danh

Achaan:         Cái mà ta gọi là danh là gì?

Vị sư 4:          Là pháp.

Achaan:         Có hai loại pháp: một là pháp có khả năng kinh nghiệm, và thứ hai là pháp không có khả năng kinh nghiệm. Cái ly có khả năng nhìn thấy được không?  Vì cái ly không có khả năng nhìn, không có khả năng kinh nghiệm gì cả nên được gọi là sắc. Mấu chốt ở đây không phải là nhớ những danh từ như là danh và sắc, mà phải hiểu từng từ ấy nói đến cái gì: sắc là thực tại không kinh nghiệm gì cả. Chúng ta phải luôn hiểu rõ từng thứ một, nếu không chúng ta có thể nói về bảy cái này hay bốn cái kia, nhưng vẫn không thể hiểu được chính xác về cái đang xuất hiện hiện giờ đúng như những gì Đức Phật dạy. Mọi người đều biết rằng cái khó để hiểu một cách đúng đắn các thực tại, nhất là cái được thấy, bởi vì dường như nó xuất hiện suốt cả ngày nhưng chúng ta không hề có cái hiểu đúng về nó. Đó là lý do cần phải có cái hiểu về cái xuất hiện càng ngày càng rõ ràng hơn, chẳng hạn như hiện giờ nó ở đâu? Nó ở bên ngoài ở bên trong, nó ở trên bàn hay ở đâu? Sư có nhìn thấy cái này không? (Achaan chỉ vào cái kính)

Vị sư 4:          Có.

Achaan:         Bây giờ sư có thấy nó không? (Achaan cất cái kính đi)

Vị sư 4:          Không.

Achaan:         Vậy thì đối tượng thị giác ở đâu? Nếu không có tứ đại thì sẽ không có cái thấy, bởi vì nếu không có tứ đại sẽ không có thực tại là cái được thấy, tứ đại bao gồm bốn đại là địa, phong, thủy, hỏa đại. Liệu tính cứng có thể được xúc chạm không?

Vị sư 4:          Có thể xúc chạm

Achaan:         Nó có thể được thấy bằng mắt không?

Vị sư 4:          Không  thấy.

Achaan:         Như vậy chỉ ở khoảnh khắc của sự xúc chạm thì tính cứng mới có thể được kinh nghiệm. Ở khoảnh khắc của cái thấy, tính cứng không thể xuất hiện làm đối tượng cho cái thấy. Nhưng có tưởng nhớ lại rằng “cái này cứng” ngay khi nó được thấy, bởi vì ngay sau khoảnh khắc của cái thấy, ý niệm về việc tứ đại sinh khởi cùng cái được thấy được kinh nghiệm qua xúc chạm như thế nào cũng sinh khởi. Như vậy rất khó hiểu được rằng đối tượng được thấy hay đối tượng thị giác không phải ai cả mà chỉ là loại thực tại có thể được kinh nghiệm bởi cái thấy mà thôi, chứ không phải là cảnh vật, con người hay bất cứ gì khác. Do đó, điều này cần phải được hiểu rõ ràng chính xác từ ngay lúc khởi đầu. Để hiểu được rằng ngay khi không có hiểu biết đúng thì ở khoảnh khắc đó sẽ có tà kiến và dính mắc.  Như vậy khi chúng ta thiền, có thể chúng ta cũng chẳng có hiểu biết đúng về bản chất của những gì xảy ra, về những thứ đơn giản trong cuộc sống hàng ngày. Cách duy nhất để phát triển tuệ giác là nghiên cứu Giáo lý một cách cẩn thận, nếu không thì chúng ta sẽ giữ  mãi quan điểm riêng của mình là “tôi thấy cái ly”.

Sadhu sadhu sadhu !

 

Leave a Reply

Translate »