Đạo Phật trong đời sống hàng ngày: chương 11

Chương 11 – Phát triển samatha

Khi trước mặt sau lưng,

Không có một người nào,

Như vậy an lạc lớn,

Sống một mình trong rừng.

Ta sẽ đi một mình,

Ðến ngôi rừng Phật khen,

Hưởng an lạc đã được,

Vị Tỳ kheo thọ hưởng,

Nhờ sống đời tinh tấn,

Sống riêng chỉ một mình.

Cho ẩn sĩ thiền định.

Đó là những lời của một vị hoàng tử, người muốn sống một mình trong rừng (Tiểu bộ kinh Tập III, Trưởng Lão Tăng kệ, Chương X, Phẩm X kệ, 234, Ekavihāriya). Chẳng phải tất cả chúng ta đều có giây phút muốn không có ai ở trước mặt, ai ở sau lưng, những giây phút mà ta chỉ có một mình hay sao? Dường như không thể tìm thấy sự tĩnh lặng trong cuộc sống hàng ngày. Chúng ta có mọi người xung quanh suốt cả ngày và có tiếng ồn khắp mọi nơi. Tuy nhiên, nguyên nhân thực sự của sự bất an lại không nằm ở bên ngoài mà ở bên trong chúng ta; nguyên nhân thực sự chính là phiền não của chúng ta. Chúng ta có thể không tạo nên tội ác nghiêm trọng như sát sinh hay trộm cắp, nhưng chúng ta có những suy nghĩ bất thiện và tốn quá nhiều thời gian nói về những lỗi lầm và thiếu sót của người khác. Chúng ta tự hại mình bằng cách ấy. Bất thiện gây hại cho cả thân và tâm. Chúng ta có thể thấy sự khác biệt toát ra bên ngoài giữa một người bất an và một người tĩnh lặng và có nhiều từ tâm.

Thật không dễ thay đổi thói quen của mình. Nếu đã quen nói theo cách bất thiện thì chúng ta không thể mong đợi thay đổi mình ngay lập tức. Chúng ta đã tích lũy sự bất thiện trong bao lâu rồi? Bởi những xu hướng bất thiện đã được tích lũy, chúng ngăn trở ta làm những việc thiện, nói những lời chánh ngữ và suy nghĩ một cách chân chánh, chúng ta cảm thấy bất an và trạo cử. Chúng ta muốn có được sự tĩnh lặng trong tâm nhưng chúng ta không biết tìm nó ở đâu.

Bố thí (dāna), trì giới (sīla) và phát triển tâm trí (bhāvanā) là những cách để có thiện tâm thay cho bất thiện tâm.

Đức Phật đã khuyến khích mọi người phát triển tất cả các loại thiện pháp, dù đó là bố thí, trì giới hay phát triển tâm trí. Tại khoảnh khắc có thiện tâm thì không có tham (lobha), sân (moha), si (dosa) và thay vào đó là sự an tịnh. Khi chúng ta cúng dường vật thực và đảnh lễ các vị sư, khi đó cũng có sự an tịnh. Không phải lúc nào cũng có cơ hội cho bố thí và trì giới, nhưng luôn có cơ hội cho phát triển thiện pháp thuộc về bhāvanā – phát triển tâm trí- tại bất cứ thời điểm nào, và nó bao gồm: nghiên cứu Giáo lý, Samatha (phát triển an tịnh) và Vipassanā (phát triển tuệ giác). Có thể thực hiện bố thí và trì giới mà có hoặc không có trí tuệ (paññā), nhưng không thể phát triển tâm trí mà không có trí tuệ.

Với việc nghiên cứu Giáo pháp – một dạng của phát triển tâm trí, chúng ta sẽ có thêm hiểu biết về Giáo lý thông qua nghiên cứu Tam tạng (Tipiṭaka) – gồm Tạng Kinh (Suttanta), Tạng Luật (Vinaya) và Tạng Vi diệu pháp (Abhidhammā). Nếu chúng ta nghiên cứu Giáo pháp, suy ngẫm về Giáo pháp và giải thích cho người khác, sẽ có nhân duyên cho thiện tâm sinh khởi cùng với trí tuệ. Cuộc sống của chúng ta và cả người khác đều sẽ phong phú hơn. Nghiên cứu Giáo pháp sẽ giúp chúng ta có được hiểu biết đúng về cuộc đời mình.

Phát triển an tịnh – Samatha và phát triển tuệ giác – Vipassanā đều thuộc về phát triển tâm trí – Bhāvanā. Nhưng mỗi một loại đều có mục đích và cách phát triển khác nhau. Mục đích của Samatha là an tịnh. Trong Samatha, phiền não bị tạm thời đè nén, nhưng không bị tận diệt. Mục đích của Vipassanā là thấy mọi thứ như chúng là. Chánh kiến, hay trí tuệ, được phát triển trong Vipassanā có thể tận diệt phiền não.

Thông qua Samatha, ta phát triển an tịnh và tạm thời thoát khỏi tham, sân, si. Khi nhận ra trong một ngày tâm bất thiện sinh khởi thường xuyên đến thế nào, chúng ta sẽ muốn phát triển suy nghĩ chân chánh hơn. Samatha là một cách phát triển thiện tâm, cả ở những khoảnh khắc không có cơ hội cho bố thí và trì giới. Samatha là cách phát triển an tịnh ở mức độ cao hơn, nhưng chúng ta cần có hiểu biết đúng về cách phát triển nó và biết rõ đặc tính của loại an tịnh là thiện pháp. Một số người có thể nghĩ rằng, có sự an tịnh khi họ ở một mình trong rừng, nhưng liệu sự an tịnh đó có luôn phải là thiện pháp không? Thay cho thiện tâm lại vẫn có thể có nhiều tham, sân và si. Như vậy, để phát triển Samatha, chúng ta phải có hiểu biết rất chính xác về các loại tâm khác nhau sinh khởi, nếu không chúng ta sẽ dễ dàng lầm lẫn cái vốn là tâm bất thiện là sự an tịnh.

Để phát triển Samatha cần có các đề mục thiền cụ thể (kammaṭṭhāna), gồm bốn mươi loại tất cả (1). Mỗi cá nhân có đề mục phù hợp riêng có thể tạo duyên cho sự an tịnh. Nếu muốn cố gắng sử dụng loại đề mục nào khác ngoài một trong bốn mươi loại đề mục này, chúng ta sẽ không thể đạt được sự an tịnh thực sự.

Hiểu đúng về đặc tính của an tịnh và của đề mục thiền là yếu tố quan trọng nhất để phát triển Samatha. Chúng ta có thể nghĩ rằng Samatha chỉ là việc chú tâm hay định tâm trên một đối tượng, nhưng loại tâm (citta) nào sinh khởi khi chúng ta cố gắng định tâm? Liệu có phải chúng ta đã bị dính mắc vào ý niệm “sự định tâm của tôi” hay không? Khi tâm là tâm bất thiện (akusala citta), sẽ không thể có sự phát triển tâm trí. Vì vậy, điều rất quan trọng là biết rõ khi nào tâm là tâm thiện (kusala citta) và khi nào thì không.

Định tâm là gì? Định tâm hay nhất tâm, trong tiếng Pāli được gọi là “ekaggatā cetasika” (tâm sở nhất tâm) hay “samādhi”, là một tâm sở (2) đi kèm với mỗi tâm. Chức năng của nó là tập trung trên một đối tượng. Chẳng hạn, cái thấy là một tâm kinh nghiệm đối tượng thị giác. Tâm sở nhất tâm, đi kèm với tâm, thực hiện chức năng tập trung vào đối tượng ấy. Mỗi một tâm chỉ có thể có một đối tượng tại một thời điểm và tâm sở nhất tâm tập trung trên đối tượng đó. Bất kể là tâm thấy, nghe, tâm đi kèm với tham, sân, sự quảng đại hay trí tuệ, đều có tâm sở nhất tâm đi kèm trong những sát na khác nhau đó. Chất lượng của tâm sở nhất tâm tùy thuộc vào tâm mà nó đi kèm. Khi tâm sở nhất tâm đi kèm với tâm bất thiện thì nó là bất thiện, và khi nó đi kèm với tâm thiện thì nó là thiện.

Trong Samatha, chánh định chỉ có thể sinh khởi khi có hiểu biết đúng về sự phát triển an tịnh. Khi có sự an tịnh thì ngay lúc đó cũng có cả chánh định đi kèm với tâm thiện.

Liệu Samatha có thể được phát triển trong cuộc sống hàng ngày hay chúng ta cần phải sống ở nơi hẻo lánh? Nếu muốn phát triển an tịnh ở mức độ cao hơn, cần có những nhân duyên riêng, như chúng ta sẽ thấy. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi người đều có thể hay có ý định phát triển an tịnh ở mức độ cao hơn. Nếu có hiểu biết đúng về Samatha, cũng có thể có nhân duyên cho những khoảnh khắc an tịnh trong cuộc sống hàng ngày sinh khởi. Chẳng hạn, trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta có thể suy ngẫm về sự bất tịnh trên thân hay trên các xác chết, đó cũng thuộc về bốn mươi đề mục thiền có thể tạo duyên cho sự an tịnh. Đối với một số người, việc quán tử thi có thể hữu ích để bớt dính mắc vào ngũ dục. Tất cả chúng ta đều có lúc thấy xác người hay xác động vật chết. Nếu chúng ta đã được đọc về quán tử thi và suy ngẫm về điều đó, sẽ có nhân duyên cho những suy nghĩ thiện sinh khởi vào lúc đó, thay vì có tâm bất thiện đi kèm với sân. Chúng ta có thể nhớ về điều Đức Phật dạy về tính vô thường của tất cả các pháp hữu vi.

Chúng ta đọc trong Thera-therīgāthā (Tiểu bộ kinh tập III, Trưởng lão tăng kệ – Trưởng lão ni kệ) về những người luôn bất an, những người không thể tìm thấy sự bình an trong tâm. Quán thân bất tịnh và quán tử thi nhắc họ về chân lý vô thường. Trong Trưởng lão tăng kệ (Tiểu bộ kinh III, Phẩm VI kệ, 213, Kulla), chúng ta đọc về vị tỳ kheo Kulla, người thường bị tham dục chi phối. Đức Phật đã nhắc vị ấy hành thiền quán trong nghĩa địa. Việc quán diễn tiến thối nát và tiêu diệt của vật bất tịnh đã tạo duyên cho vị ấy đạt được sự an tịnh tới tầng thiền đầu tiên, hay còn gọi là sơ thiền. Từ đó, vị ấy đã phát triển tuệ giác và đạt được A la hán quả. Những câu kệ sau đây mô tả sự chứng đắc của vị ấy:

Kulla đến nghĩa địa,

Thấy bỏ một đàn bà,

Vất ném trong nghĩa địa,

Làm mồi cho sâu ăn.

Kulla, hãy nhìn thân,

Bệnh hoạn nhớp hôi thối,

Nước ứ chảy, rỉ chảy,

Ðược kẻ ngu thích thú.

Sau khi nắm gương pháp,

Ðạt được chánh tri kiến,

Ta quán sát thân này,

Trống rỗng cả trong ngoài.

Ðây thế nào, kia vậy,

Kia thế nào, đây vậy,…

Kulla đã được nhắc nhở về sự thật và đã thấy mọi thứ như chúng là.

Có những người mà việc quán thân bất tịnh hay quán tử thi là không hữu ích; đối với họ, thay vào đó, có thể niệm ân Đức Phật, Đức Pháp và Đức Tăng – cũng là những đề mục thuộc bốn mươi đề mục thiền. Hoặc họ có thể niệm “giới” (sīla) hay “bố thí” (dāna), cũng là những đề mục thiền khác. Việc niệm bố thí (niệm thí) có thể giúp chúng ta có thêm sự rộng lượng, quảng đại. Trong Thanh tịnh đạo (VII, 107), chúng ta đọc rằng người bắt đầu phát triển đề mục thiền này, cần phải có quyết định như sau: “Từ nay trở đi, lúc nào có người hiện diện để nhận, thì ta sẽ không ăn dù chỉ một miếng, nếu không bố thí một cái gì trước đó”. Sau khi người ấy đã bố thí, người ấy có thể tưởng niệm lại như sau: “Thật sự là lợi lạc cho ta, thật là lợi ích lớn cho ta, rằng trong cuộc đời bị ám ảnh bởi ô nhiễm của lòng tham (biển lận) ta an trú với tâm không bị ô nhiễm bởi tham. Ta bố thí một cách rộng rãi bàn tay rộng mở, thích thú trong sự từ bỏ, mong được kẻ khác yêu cầu và vui mừng được cho được san sẻ”. Đối với việc tưởng niệm nay, chúng ta phải biết đặc tính của sự quảng đại; chúng ta không thể tưởng niệm sự quảng đại và không thể đạt được an tịnh với đề mục thiền này nếu không có lòng quảng đại trong cuộc sống hàng ngày của mình.

Có những đề mục thiền khác như Tứ vô lượng tâm (Brahmavihāras), bao gồm: tâm từ (mettā), tâm bi (karuṇā), tâm hỷ (muditā) và tâm xả (upekkhā). Tuy nhiên, những phẩm chất này không thể là đề mục thiền của những người không thực hành chúng trong cuộc sống hàng ngày. Làm sao chúng ta có thể phát triển đề mục thiền là tâm từ khi chúng ta không biết đặc tính của tâm từ khi nó sinh khởi trong cuộc sống hàng ngày? Chúng ta có thể có những giây phút từ tâm trong sáng, nhưng chắc chắn cũng có nhiều khoảnh khắc vị kỷ chen lẫn khi đó. Chẳng phải chúng ta dính mắc với mọi người hay sao? Rất cần thiết phải biết chính xác khi nào có khoảnh khắc của tâm từ trong sáng và khi nào có sự dính mắc. Cần phải có hiểu biết đúng phân biệt rõ ràng sự khác biệt giữa các đặc tính này và vì vậy, chúng ta sẽ lại thấy rằng hiểu biết đúng là không thể thiếu được trong Samatha.

Nếu như biết đặc tính của tâm từ, chúng ta có thể phát triển tâm từ và khi đó, nó sẽ tạo duyên cho sự an tịnh. Đề mục này có thể giúp chúng ta có thiện tâm thay cho các suy nghĩ ác ý.

Chánh niệm hơi thở là một đề mục thiền khác. Để phát triển an tịnh với đề mục này, chúng ta phải có hiểu biết đúng về nó và biết chánh niệm ra sao về đặc tính của hơi thở. Theo Thanh tịnh đạo, chánh niệm hơi thở là một trong những đề mục thiền khó nhất, vì hơi thở rất vi tế, không phải tất cả mọi người đều có thể chánh niệm về nó.

Hơi thở là gì? Cái mà chúng ta gọi là hơi thở chính là sắc pháp – rūpa, một hiện tượng vật lý. Sắc trên thân có thể được tạo duyên bởi một trong bốn yếu tố: nghiệp, tâm, nhiệt độ và vật thực. Hơi thở được tạo duyên bởi tâm. Chừng nào còn có tâm, chừng ấy còn có hơi thở được tạo duyên bởi tâm. Tất cả chúng ta đều dính mắc vào cuộc sống và những thứ mình hưởng thụ trong cuộc sống, nhưng cuộc sống rất mỏng manh. Cuộc sống được duy trì nhờ hơi thở, tức là sắc sinh rồi diệt. Khi chúng ta trút hơi thở cuối cùng, cái chết sẽ đến và vậy thì, của cải và tất cả những gì chúng ta dính mắc còn có nghĩa gì đây? Khi chánh niệm về hơi thở được phát triển với hiểu biết đúng, nó có thể tạo duyên cho sự an tịnh, nhờ đó sẽ tạm thời thoát khỏi phiền não. Tuy nhiên, đặc tính của hơi thở cần phải được biết một cách rõ ràng.

Thanh tịnh đạo (VIII, 197, f.f) giải thích rằng hơi thở xuất hiện khi nó chạm vào chót mũi hay môi trên. Nó diệt ngay lập tức tại nơi nó xuất hiện. Chúng ta không nên đi theo hơi thở đi vào và đi ra, chúng ta chỉ nên hay biết hơi thở nơi mà nó chạm vào chót mũi hay môi trên. Thanh tịnh đạo giải thích điều này qua ví dụ hình ảnh người gác cổng:

Ðây ví dụ về người gác cổng: cũng như một người gác cổng không khám xét những người ở trong và ngoài thành, hạch hỏi “Ông là ai? Ở đâu? Ði đâu? Cầm cái gì trong tay đó?… Bởi vì đó không phải việc của người ấy, nhưng anh ta phải xét từng người khi nó đến tại cổng, cũng vậy, những hơi thở vô đã vào bên trong và những hơi thở ra đã đi ra, thì không phải cái bận tâm của vị tỳ kheo, nhưng vị ấy chú tâm đến chúng ngay khi chúng đến ngang cái cửa mũi.

Nếu theo dõi hơi thở vào và hơi thở ra, theo Thanh tịnh đạo, tâm của chúng ta sẽ bị “phân tán vì bất an và tán loạn”. Hiểu biết đúng về phương pháp phát triển đề mục thiền này là không thể thiếu. Nếu nghĩ rằng tất cả những gì cần làm là chỉ cố gắng định tâm thật vững chắc trên hơi thở, khi đó chúng ta có thể đã định tâm với tham, sân và si. Nếu chúng ta vui thú với việc quan sát hơi thở và nếu mục đích là để cảm thấy dễ chịu thì lại có tâm tham và như vậy không phải là phát triển tâm trí – bhāvanā. Một số người có xu hướng luyện tập hơi thở để nâng cao sức khỏe, nhưng nếu muốn phát triển an tịnh, chúng ta phải biết cái gì là bhāvanā và cái gì không phải là bhāvanā. Mục đích của đề mục thiền này là an tịnh, cái là thiện pháp, vì vậy cần phải có trí tuệ (paññā) để biết chính xác khi nào tâm là thiện và khi nào là bất thiện. Khi có những khoảnh khắc của sự an tịnh, khi đó không có sự dính mắc.

Vô cùng khó để chánh niệm đúng về hơi thở để có được sự an tịnh thực sự, vắng bóng tham, sân và si. Chúng ta rất dễ coi cái không phải là hơi thở là hơi thở, tức là sắc được tạo duyên bởi tâm. Một số người quan sát cử động của bụng và nhầm lẫn cho đó là chánh niệm về hơi thở. Nếu không có tích lũy cho chánh niệm về hơi thở, chúng ta không nên ép bản thân phải quán đề mục ấy. Có nhiều đề mục thiền khác có thể tạo duyên cho sự an tịnh.

Có chánh niệm về hơi thở ở cả Samatha và Vipassanā. Đâu là sự khác biệt giữa đối tượng chánh niệm trong Samatha và đối tượng chánh niệm trong Vipassanā? Trong Samatha, có chánh niệm hay biết, tức là không quên, về hơi thở nhằm tạm thời đè nén phiền não. Trong Samatha, đối tượng của chánh niệm không phải là đặc tính của bất kỳ danh hay sắc nào xuất hiện qua một trong sáu môn tại khoảnh khắc hiện tại như trong Vipassanā. Có trí tuệ trong cả Samatha và Vipassanā, nhưng trí tuệ trong Samatha không biết danh và sắc như chúng là, là vô ngã (anattā). Trí tuệ trong Samatha biết khi nào tâm là tâm thiện và khi nào là tâm bất thiện; nó biết làm thế nào để phát triển sự an tịnh – cái có thể tạm thời đè nén phiền não. Mục đích của Vipassanā là thấy mọi thứ như chúng là. Trong Vipassanā, chánh kiến được phát triển để hay biết tất cả danh và sắc xuất hiện, bất kể chúng ta đang làm gì. Cả khi chúng ta phát triển an tịnh bằng chánh niệm hơi thở, cũng có danh và sắc xuất hiện và chúng có thể được biết như chúng thực là: là vô thường và vô ngã. Trí tuệ trong Vipassanā biết danh và sắc như chúng là.

Một số đề mục thiền của Samatha có thể là sự quán niệm của chúng ta trong đời sống hàng ngày và chúng có thể tạo duyên cho những khoảnh khắc an tịnh. Tuy nhiên, có một số người có tích lũy phát triển an tịnh ở mức độ cao hơn, thậm chí đến các tầng thiền. Khi đạt đến mức độ an tịnh cao hơn, tâm sở nhất tâm, tức ekaggatā cetasika hay samādhi đi kèm với tâm có sự an tịnh, cũng ở mức độ cao hơn. Samādhi được phát triển khi có đủ nhân duyên, chúng ta không thể ép bản thân trở nên định tâm được.

Trong phát triển Samatha, có ba giai đoạn của samādhi: giai đoạn sơ định (parikamma samādhi), giai đoạn cận định (upacāra samādhi) và giai đoạn an chỉ định (appanā samādi) đi kèm với tâm thiền (jhānacitta). Khi vẫn ở giai đoạn sơ thiền của samādhi, tức là giai đoạn parikamma samādhi, tâm hay biết đề mục thiền, nhưng nó không phải là tâm thiền; nó là tâm dục giới (kāmāvacara citta). Tâm dục giới là những tâm sinh khởi trong cuộc sống hàng ngày, ví dụ, khi chúng ta thấy, nghĩ hay mong ước điều gì đó. Khi samādhi đạt đến giai đoạn cận định, hay upacāra samādhi, thì sẽ có sự an tịnh ở mức độ cao hơn, nhưng tại giai đoạn đó, tâm vẫn là tâm dục giới, không phải là tâm thiền. Khi samādhi đạt đến giai đoạn an chỉ định, hay appanā samādhi, tâm khi đó là tâm thiền. Tâm thiền kinh nghiệm đề mục thiền ở mức độ toàn định; tại khoảnh khắc đó, chúng ta được giải phóng khỏi các tác động ngũ quan và vì vậy, giải phóng khỏi phiền não sinh khởi từ các giác quan đó. Tâm thiền là tâm thức ở mức độ cao hơn tâm dục giới.

Nếu mọi người không biết về các giai đoạn samādhi khác nhau, họ có thể nghĩ sai lầm rằng họ có tâm thiền hoặc họ có thể hoài nghi, liệu họ đã đạt tầng thiền hay chưa. Tâm thiền luôn đi kèm với trí tuệ (paññā). Nếu chúng ta còn có hoài nghi, rõ ràng là chưa có trí tuệ. Ngay cả nếu chúng ta không có ý định phát triển các tầng thiền thì vẫn rất cần phải biết về các mức độ samādhi khác nhau. Chúng ta có thể đã vun trồng samādhi trong kiếp quá khứ và nếu có đủ nhân duyên, một trong những mức độ samādhi có thể sinh khởi. Những người chưa nghiên cứu Giáo pháp có thể lẫn lộn giữa định tâm và jhāna. Có chánh định và tà định. Khi mọi người định tâm trên một đề mục thiền theo cách sai lầm, chẳng hạn với tâm tham, đó là tà định. Họ có thể, do tà định, có những kinh nghiệm khác thường mà họ lầm tưởng là jhāna. Hoặc họ thậm chí có thể cho những kinh nghiệm như vậy là đã đạt đến niết bàn.

Có nhiều tầng thiền và mỗi tầng cao hơn sẽ vi tế và an tịnh hơn tầng trước. Có rūpa-jhāna, còn được dịch là “thiền sắc giới”, và arūpa-jhāna, được dịch là “thiền vô sắc giới”. Thiền vô sắc giới vi tế hơn thiền sắc giới; đề mục thiền của tâm thiền vô sắc giới (arūpa-jhāna citta) không phải là những đối tượng có thể được kinh nghiệm qua ngũ căn.

Trong số bốn mươi đề mục thiền, chỉ có một số đề mục có thể dẫn đến cận định (upacāra samādhi), một số dẫn đến thiền sắc giới (rūpa-jhāna) nhưng không tới được tầng cao nhất, và một số dẫn đến tầng  sắc giới (rūpa-jhāna) cao nhất. Có bốn (hay có hệ thống là năm) tầng thiền sắc giới (rūpa-jhāna) (3).

Những người nhận thấy hạn chế của những đề mục thiền sắc giới (rūpa-jhāna), những đề mục thiền kém vi tế hơn thiền vô sắc giới (arūpa-jhāna), sẽ phát triển các đề mục thiền của arūpa-jhāna. Có bốn giai đoạn của tầng thiền arūpa-jhāna, đó là: Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, và Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Tưởng trong tầng thiền vô sắc giới thứ tư vô cùng vi tế.

Trong số những người phát triển Samatha, có rất ít người có thể đạt được jhāna. Cần phát triển rất nhiều kỹ năng để đạt được jhāna. Chúng ta nên biết các nhân duyên để đạt được jhāna và cái gì cản trở việc đạt được jhāna. Chúng ta đọc trong Thanh tịnh đạo (VII, 8) rằng vô cùng khó khăn để đạt được giai đoạn sơ định (parikamma samādhi) hay giai đoạn cận định (upacāra samādhi), để đạt được jhāna và để phát triển các kỹ năng trong jhāna nhằm có được các thần thông.

Ngày nay mọi người muốn kinh nghiệm cái gì đó vượt khỏi thế gian này, bởi vì họ cảm thấy khó khăn hay buồn chán về cuộc sống. Chẳng phải đôi lúc chúng ta vẫn muốn biết tương lai hay sao? Chúng ta có thể tò mò về những gì thầy bói tiên đoán về cuộc đời ta. Có nhiều người trong chúng ta xem tử vi trên báo hàng ngày, và ngay cả khi nói rằng chúng ta không tin vào những thứ ấy, chúng ta vẫn không thể không coi trọng nó. Những người ốm đau không được bác sĩ chữa khỏi thì đến gặp những ông/bà lang tuyên bố sẽ chữa trị hiệu quả hơn bác sĩ. Chúng ta có thể đến gặp thầy bói hoặc những người nói họ có khả năng tiên tri, nhưng chúng ta vẫn không hề biết về bản thân mình. Chúng ta vẫn có phiền não, vẫn có vô minh, vẫn phải tiếp tục trong vòng luân hồi sinh tử. Chừng nào chúng ta còn có tham, sân và si trong tâm mình, chừng đó không thể tìm thấy hạnh phúc thực sự.

Trong thời kỳ Đức Phật còn tại thế, mọi người phát triển các tầng thiền đến khi họ trở nên rất thuần thục và thậm chí đạt được các thần thông. Những người đạt đến các tầng thiền sắc giới (rūpa-jhāna) và thiền vô sắc giới (arūpa-jhāna) cao nhất và đã “thuần thục” trong việc chứng đắc  những tầng thiền ấy có thể tự mình tiếp tục phát triển thần thông. Việc phát triển thần thông là vô cùng khó khăn, chỉ rất ít người trong số người đắc các tầng thiền mới có thể phát triển chúng. Thần thông được phát triển bằng Samatha gồm có bay trên không khí, đi trên mặt nước, xuyên qua lòng đất; “thiên nhĩ thông” hay khả năng nghe được âm thanh từ các cõi; “tha tâm thông”, khả năng đọc được suy nghĩ của người khác; năng lực nhớ được tiền kiếp của chúng sinh; và “thiên nhãn thông”, thấy được sự sinh diệt của chúng sinh.

Chúng ta đọc trong Kinh Sa môn quả (Trường bộ kinh Tập I, số 22, 87, 88) rằng Đức Phật đã nói với vua Magadha về vị sa môn đạt được thần thông. Đức Phật đã nói như sau:

Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỳ kheo dẫn tâm, hướng tâm đến các thần thông. Vị ấy chứng được các loại thần thông, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân; hiện hình, biến hình; đi ngang qua vách, qua tường, qua núi như đi ngang hư không; độn thổ, trồi lên ngang qua đất liền, như ở trong nước; đi trên nước không chìm như trên đất liền; ngồi kiết già đi trên hư không như con chim; với bàn tay, chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy; có thể tự thân bay đến cõi Phạm thiên…

Trong Đạo Phật, chúng ta học về luật nhân quả. Mọi người thường ấn tượng trước những thứ kỳ lạ khi họ không biết các duyên gì khiến cho chúng sinh khởi. Mỗi một hiện tượng trong cuộc sống của chúng ta đều có các yếu tố làm duyên cho sự sinh khởi. Khi hiểu điều này, chúng ta không còn ngạc nhiên trước các hiện tượng kỳ lạ. Ngài Mục Kiền Liên, Ngài A Nậu Lâu Đà và các vị đệ tử khác đều có thần thông, nhưng họ không dính mắc vào chúng và coi chúng là ngã, bởi vì họ nhận ra rằng những hiện tượng đó sinh khởi do duyên.

Samatha là mức độ thiện nghiệp (kusala kamma) cao và nó mang đến quả thiện (kusala vipāka). Samatha có thể giúp mọi người an tịnh hơn. Nhưng phiền não không thể bị tận diện bằng Samatha, ngay cả khi an tịnh được phát triển đến mức độ các tầng thiền (jhāna). Phiền não cũng không thể bị tận diệt bằng các thần thông. Đắc thiền và thần thông không thể dẫn đến chấm dứt vô minh. Khi còn là vị Bồ tát, Đức Phật đã phát triển Samatha, nhưng Ngài cũng phát triển cả Vipassanā để có thể trở thành vị Phật toàn giác.

Trong Tạng Luật (Phân tích giới tỳ kheo I, Chương Veranja, 3) chúng ta đọc rằng Đức Phật đã nói với vị Bà la môn Verañja về “ba canh” trong đêm Ngài thành đạo. Ở canh thứ nhất, Ngài đã nhớ lại nhiều kiếp sống trước của mình, đó là năng lực thần thông được phát triển qua Samatha. Ở canh hai, Ngài quán xét về sự sinh tử của chúng sinh, cũng là một năng lực thần thông. Ở canh ba, Ngài tận diệt mọi phiền não và chứng đạt vị quả Phật. Chúng ta đọc rằng:

Trong khi tâm được an trụ… ta đây đã hướng dẫn tâm đến trí tuệ đoạn tận các lậu hoặc. Ta đây đã biết rõ: Đây là khổ, đây là nguyên nhân của khổ, đây là sự diệt khổ, đây là sự thực hành đưa đến sự diệt khổ… Trong khi ta đây biết được như thế, thấy được như thế, thì tâm cũng đã được giải thoát khỏi dục lậu, tâm cũng đã được giải thoát khỏi hữu lậu, tâm cũng đã được giải thoát khỏi vô minh lậu. Khi ta đã được giải thoát, trí tuệ giải thoát đã khởi lên và ta đã biết rõ rằng: Sự tái sanh đã cạn kiệt, Phạm hạnh đã sống, việc cần làm đã làm, không còn (đưa đến) bản ngã nào khác (tương tợ) như vầy nữa. Này Bà-la-môn, quả vậy vào canh cuối của đêm ta đã chứng đạt Minh thứ ba này. Ta đã diệt tận vô minh và làm cho minh sanh khởi, ta đã diệt tận bóng tối và làm cho ánh sáng sanh khởi….

Tứ diệu đế có thể được biết thông qua Vipassanā. Làm sao chúng ta có biết rằng danh và sắc là khổ (dukkha) nếu chúng ta không hay biết các đặc tính của chúng khi chúng xuất hiện tại thời điểm hiện tại? Chỉ khi ấy, chúng ta mới biết chúng là vô thường, khổ và bất toại nguyện. Loại hiểu biết này có thể dẫn đến sự tận diệt phiền não.

********

Chú thích

(1)  Xem chi tiết trong Thanh tịnh đạo, Chương IV-IX

(2)  Tâm sở là một loại danh sinh khởi cùng với tâm. Chỉ có một tâm ở một thời điểm, nhưng nó được đi kèm với nhiều tâm sở. Một số tâm sở sinh khởi với tất cả các loại tâm, một số khác chỉ sinh khởi với một số tâm nhất định. Các tâm sở bất thiện chỉ đi kèm tâm thiện, các tâm sở tịnh hảo (đẹp, thiện) ddichir đi kèm với tâm thiện (tâm tịnh hảo)

(3)  Để đắc thiền, ta phải phát triển các thiền chi, tức một số loại tâm sở cụ thể. Tại mỗi tầng thiền cao hơn trong sắc giới, một số thiền chi được từ bỏ vì không thấy cần thiết nữa. Một số người ở nhị thiền đã bỏ cả hai chi thiền thay cho chỉ một, và với họ, sẽ chỉ có bốn tầng thiền sắc giới thay cho năm.

Comments are closed.

Translate »